
ngọt hơn bất cứ loại nho nào tôi từng ăn…
Chúng
tôi ngồi đối diện và cùng thưởng thức chùm nho ấy. Đột nhiên, nhớ đến một câu
nói vui: Ăn nho nhớ bỏ vỏ nho đó![9'> Tôi phì cười, muốn dạy
lại cho Rajiva. Tiếng Hán của cậu ấy chịu ảnh hưởng khẩu âm Khâu Từ nên phát âm
không chuẩn, mấy lần bị líu lưỡi, làm tôi cười ngất. Không khí vui vẻ ấy khiến
tôi bồi hồi, giá như, giá như thời gian ngưng đọng trong giây phút này…
Những
ngày diễn ra lễ hội cầu nguyện, Rajiva rất mệt mỏi, nhưng vẫn kiên trì đến chỗ
tôi. Tôi tạm ngừng việc giảng bài và nghĩ cách để cậu ấy được nghỉ ngơi, thư
giãn. Đôi lúc rất muốn massage cho cậu ấy, nhưng tất nhiên chỉ dám nghĩ trong
đầu. Buổi tối ngày cuối cùng, cả ngôi chùa rực rỡ ánh sáng. Trên tay mỗi người
đều có một cây đèn nhỏ. Rajiva đến trước tượng Phật tổ, khấu đầu vái lạy, rồi
thắp sáng ngọn đèn trong tay mình. Rồi lần lượt các tăng sư sắp xếp theo phẩm
giới từ cao xuống thấp, người phía sau đón ánh lửa từ ngọn đèn của người phía
trước để thắp sáng ngọn đèn trên tay mình. Phút chốc, cả đại điện lung linh rực
rỡ. Tôi cũng thắp sáng ngọn đèn của mình, cảm giác như ánh sáng ấy có thể chiếu
rọi cả cõi tâm linh. Trong không khí linh thiêng ấy, Rajiva tựa như một vị
thánh với hào quang tỏa sáng, thần tuệ siêu phàm, dẫn dắt cả nghìn người cầu
nguyện, rồi thả từng thẻ gỗ có ghi tên những người đã khuất vào trong đống lửa.
Âm thanh tụng niệm vang vọng, bay lượn trong không gian và rót vào tai tôi.
Khung cảnh này, cảm xúc này khiến tôi cảm động tưởng như có thể bật khóc.
Lễ hội
kết thúc đã nhiều ngày rồi, vậy mà tôi vẫn không ngừng hồi tưởng về bầu không
khí tâm linh trang nghiêm hôm đó, thêm một lần nữa tôi đã lĩnh hội được sức
mạnh tinh thần lớn lao của tôn giáo. Có lẽ vì thế chăng mà ngay từ khi loài
người xuất hiện, tôn giáo cũng theo đó ra đời. Và tôi tin rằng, tôn giáo sẽ
tiếp tục tồn tại trường tồn cùng với sự tồn tại của con người và chỉ biến mất
khi loài người diệt vong. Ai cũng có nhu cầu ký thác tâm nguyện, nhất là khi
phải trải qua những khổ nạn. Phật giáo đã bắt rễ rất sâu và lưu truyền rộng rãi
ở Trung Nguyên vào thời kỳ Nam Bắc triều, bởi vì đó là một giai đoạn lịch sử
thảm khốc. Khi tôi nói với Rajiva về suy nghĩ và cảm nhận đó, cậu ấy mỉm cười
đồng tình. Phần lớn kinh văn Phật giáo tôi đều không thuộc, tôi chỉ có thể thảo
luận với cậu ấy về tôn giáo dưới góc độ lịch sử và triết học mà thôi. Có đôi
lúc, cậu ấy không lí giải nổi những điều tôi nói, nhưng chỉ trong giây lát, tư
duy thần tốc đã cho cậu ấy câu trả lời trọn vẹn. Khoảng thời gian ngắn ngủi mỗi
buổi tối trôi qua trong chớp mắt. Tới khi nhận ra đã đến giờ cậu ấy phải về
chùa, tôi không khỏi ấm ức, vì sao học thuyết tương đối của Einstein lại đúng
tuyệt đối kia chứ!
Tôi
tiếp tục công việc khảo sát và vẽ tranh trong chùa. Có lúc, tôi đang ngồi xếp
bằng bên ngoài đại diện để đo đạc, thì cậu ấy bước vào trong trò chuyện với các
đệ tử. Khi tôi ngồi trong đại điện họa lại những bức vẽ trên tường, thì cậu ấy
dẫn theo một số hòa thượng vào điện thuyết pháp, không quên ra hiệu cho tôi
tiếp tục công việc của mình, đừng để ý đến họ. Khi tôi kiễng chân lên đo chiều cao
của ngôi tháp, sẽ có một bóng người cao gầy bước đến cầm lấy chiếc thước cuộn,
che trên đầu tôi. Khi tôi khát nước, lập tức sẽ có một chú tiểu mang nước đến
cho tôi, sau đó sẽ thấy bóng chiếc áo cà sa màu nâu sòng thân thuộc lướt qua
bậc cửa…
Không thể
tiếp tục như vậy! Giờ đây mỗi lần nhìn thấy Rajiva, trái tim tôi lại đập rộn
ràng một cách khó hiểu. Ngày nào không thấy cậu ấy, tôi như người mất hồn,
không thể tập trung làm được việc gì cả. Buổi tối, khi gối đầu trên chiếc gối
của cậu ấy, đắp lên mình tấm chăn của cậu ấy, một niềm vui bất trị cứ trào dâng
trong tôi. Lúc đến chùa Cakra, tay tôi cầm bút nhưng mắt tôi không ngừng dõi
theo từng bước chân của cậu ấy, cho đến khi Rajiva ngước lên và mỉm cười với
tôi. Tôi biết rất rõ những biểu hiện ấy có nghĩa là gì. Nếu tôi vẫn tiếp tục
ngắm nhìn gương mặt ấy, tiếp tục lắng nghe giọng nói của của cậu ấy, tôi sẽ sa
vào “vòng trầm luân”, không thoát ra được và cũng không muốn thoát ra. Nhưng,
Ngài Tình ơi, cô có thể có tình cảm với bất cứ ai, nhưng không được có tình cảm
với cậu ấy. Cậu ấy không phải là tách trà cô uống mỗi ngày. Giữa cô và cậu ấy
là khoảng cách 1650 năm thời gian. Và điều quan trọng nhất là: cậu ấy mãi mãi
là một hòa thượng, còn cô, sớm muộn cũng phải quay trở về thế kỷ XXI của mình.
Vậy nên,
sau hai tháng trời kéo lê, công việc khảo sát ở chùa Cakra của tôi không thể
không kết thúc. Trăn trở mãi, cuối cùng tôi cũng quyết định sẽ nói với cậu ấy
về dự định của mình vào buổi học tiếp theo.
Hôm đó,
tôi giảng giải cho Rajiva quyển thứ sáu mươi mốt trong tập “Sử ký” của Tư Mã
Thiên có tên gọi – Bá Di liệt truyện. Bá Di và Thúc Tề lấy việc nước mất làm
xấu hổ, thề không ăn thóc nhà Chu, bỏ lên núi hái rau dại ăn qua bữa, nhưng rau
dại không thể nuôi sống con người, nên cuối cùng hai ông đã bị chết đói tại núi
Thú Dương. Dưới ngòi bút của