
vân và vân vân các phương thức chữa thẹn.
Ở chùa
Cakra, tôi từng được chứng kiến Rajiva chủ trì một ngày hội cầu nguyện Phật
Quan Âm. Tên gọi Quan Âm Bồ Tát được dịch ý từ tiếng Phạn, lẽ ra phải dịch
thành Quan Tự Tại, nhưng sau khi truyền vào Trung Nguyên, người Hán đã đọc sai
thành Quan Thế Âm. Thời nhà Đường, vì không muốn phạm húy khi có âm đọc trùng
với tên vua Lý Thế Dân, triều đình đã hạ lệnh lược bỏ chữ “Thế”, nên tên Bồ Tát
chỉ còn là Quan Âm. Tôi vốn không hề biết đây chính là ngày hội cầu nguyện Quan
Âm Bồ Tát mà sau này đã được truyền bá rộng rãi tại Trung Nguyên, vì tên tiếng
Phạn của Quan Âm rất khó nhớ. Nhưng khi nhìn thấy pho tượng Quan Âm thì tôi đã
hiểu ra. Vào thời kỳ này, Quan Âm Bồ Tát không phải là hình tượng một vị Phật
nữ giàu lòng từ bi mà chúng ta thường gặp, mà là một vị Phật nam uy nghiêm với
hai vành râu rất đẹp, giống hệt hình ảnh trên những bức bích họa ở Mạc Cao, Đôn
Hoàng và hình ảnh điêu khắc về Phật giáo thời kỳ Nam Bắc triều. Trước thời nhà
Đường, Phật Quan Âm mang hình tượng của một vị Phật nam. Nhưng vì Quan Âm đi
chu du khắp nơi, ngài thường cứu vớt chúng sinh bằng những phép thuật khéo léo
tài tình và ngài còn có thể ban tặng con cái cho chúng sinh, nên có lẽ hình
tượng Phật nữ phù hợp với ngài hơn chăng?
Lễ hội
kéo dài bảy ngày và vì là lễ hội cầu nguyện cho mọi chúng sinh nên ai cũng có
thể tham gia. Phật tử viết tên người thân đã qua đời của mình lên một thẻ gỗ,
rồi trao cho vị sư phụ trách tiếp nhận để đặt lên hương án trước ban thờ Phật.
Rajiva cùng các Phật tử đặt hoa và dâng hương lên bàn thờ Quan Âm, sau đó chắp
tay quỳ xuống vái ba vái, mỗi động tác, cử chỉ đều rất mực từ tốn, nho nhã,
thanh thoát. Rồi cậu ngồi trên bục cao, khẽ lắc chiếc chuông đồng trên tay, âm
thanh giòn giã trong trẻo vang xa, bỗng chốc, cả đại điện trở nên yên ắng lạ
thường.
Rajiva
đưa mắt quan sát một lượt, vầng trán cao rộng, đôi mắt sáng ngời và gương mặt
đức độ dạo qua tất cả mọi người, trong khói hương nghi ngút, hình ảnh của
Rajiva tựa như một vị tiên hạ phàm. Khi cậu cất tiếng, âm thanh như có sức mạnh
thấu suốt, vang động mãi trong không gian thánh khiết.
Tự giác
ngộ và giải thoát là biểu hiện của trí tuệ sáng suốt, giúp người giác ngộ và
giải thoát là biểu hiện của lòng từ bi hỉ xả. Quan Thế Âm Bồ Tát với trí tuệ
sáng suốt và tấm lòng đại từ đại bi luôn dõi theo chúng sinh. Ngài ban phát
những lời răn và sự giúp đỡ dựa trên năng lực, phẩm hạnh và mong muốn không
giống nhau của mỗi người. Từ đó, giúp chúng sinh vơi bớt thống khổ, giúp niềm
hân hoan được nhân lên, giúp con người sống cuộc đời tự do tự tại, không phiền
muộn, ưu sầu.
Chúng
tăng quỳ rạp bái lạy, đồng thanh niệm đọc A di đà Phật. Những người dân đứng
bên cạnh tôi cũng quỳ xuống bái lạy, tôi vội vàng học theo. Tiếp đó, Rajiva đọc
một câu kinh, sư tăng trong đại điện cất giọng đọc theo, biển thanh âm thành
kính, từ tâm ấy ngân vang, bay lên cao như lay động cả trời xanh.
Ngày
hôm đó, chùa Cakra phát lộc cho mọi thiện nam tín nữ đến chùa. Rajiva đích thân
chia lộc và ban phước cho mọi người. Hàng ngũ kéo dài đến tận cổng chính của
chùa. Tôi len lỏi từng chút một để nhích dần lên phía trước và không ngừng
nghển cổ ngóng trông. Rajiva miệng niệm A di đà Phật, tay chắp lại kính cẩn,
phân phát từng phần lộc đã được gói bọc cẩn thận cho từng người, tay cầm cây
trượng dài được khắc chạm tinh xảo gõ nhẹ lên đầu mỗi người cầu phúc cho họ. Ai
nấy đều tươi cười mãn nguyện. Xếp hàng hai tiếng mới đến lượt tôi, bụng đói cồn
cào. Nhìn thấy tôi, Rajiva thoáng vẻ ngạc nhiên, đáy mắt gợn nhẹ một ánh cười,
quay sang nói nhỏ với đệ tử bên cạnh đôi câu. Rồi đặt lễ lên tay tôi, tôi mỉm
cười chắp tay đáp lễ, cúi đầu nhận lời cầu phúc. Một vật gì đó chạm nhẹ trên
đầu, mùi gỗ đàn hương tỏa khắp không gian, ngẩng đầu nhìn Rajiva, trên gương
mặt ấy là vẻ an nhiên tự tại và khí chất thanh tao không thuộc về thế giới trần
tục, bỗng tôi thấy tim mình đập mạnh. Đang định rảo bước thì vị sư khi nãy chạy
tới trao cho Rajiva một chùm nho. Rajiva tươi cười đón lấy, đặt vào tay tôi.
Nho là hoa quả phổ biến nhất ở Khâu Từ nên rất rẻ. Tôi len lén nhìn quanh, thấy
không ai có phản ứng bất mãn nào với phần quà đặc biệt dành cho mình, liền vội
vàng cúi đầu nhận lộc và nhanh chân bước đi.
Chùm
nho ấy tôi không nỡ ăn, tôi lấy một tờ giấy bọc lại cẩn thận rồi cất vào trong
ba lô. Buổi tối khi trở về, Rajiva có vẻ mệt mỏi, nhưng tinh thần rất phấn chấn
và vui vẻ. Cậu ấy cả ngày không ăn uống gì, lại phải ở đó phát lộc và cầu phúc
cho mọi người bốn tiếng đồng hồ liền, tôi thấy thương, vội lôi từ trong ba lô
chùm nho để dành ra, nhưng ngập ngừng chưa biết phải thuyết phục cậu ấy như thế
nào.
Rajiva
chăm chú quan sát từng động tác của tôi. Khi thấy tôi bóc lớp vỏ bọc và chìa
chùm nho ra trước mặt, cậu hơi ngạc nhiên. Không chờ tôi mở lời, cậu đón lấy,
ngắt một quả bỏ vào miệng, nhìn tôi cười:
- Ngọt
lắm!
Tôi
sững người trong giây lát, rồi cũng ngắt một quả thưởng thức, đúng là rất ngọt,