
ói điều đó với Rajiva, sợ cậu ấy không vui. Tôi bắt chước Rajiva,
chắp tay cúi lạy thành kính và cắm hương lên khối ngọc thần thánh. Bước ra khỏi
điện thờ nổi tiếng ấy, tôi chợt thấy một hành lang rất dài chạy hút về phía
sau, nhưng hai bên được che phủ kín đáo, nom có vẻ tối tăm âm u kỳ lạ và cảm
giác như nó kéo dài đến vô tận.
Thấy
tôi lặng lẽ quan sát hành lang kỳ lạ đó hồi lâu, Rajiva đến bên, nhẹ nhàng lên
tiếng:
- Đó là
nơi thọ đại giới. Cô là người phàm, không được phép vào đó.
Thọ đại
giới tức là thọ giới Cụ Túc (Upasambada)! Chẳng khác nào nhận bằng tốt nghiệp
đại học chuyên ngành Phật học dành cho các đệ tử nhà Phật! Chỉ khi đã thọ giới
Cụ Túc, mới được xem là đủ tư cách và điều kiện để trở thành một Tỷ khâu
(Bhikkhu). Rajiva nổi danh khi còn rất trẻ, những tri thức Phật học và sự giác
ngộ Phật pháp của cậu, giới tăng sĩ đương thời, không ai bì kịp. Nhưng, cho dù
đạt được cảnh giới cao đến đâu về kiến thức Phật học, cậu vẫn phải tuân thủ
những quy định của giới tu hành trong các thiền viện. Vậy nên, mặc dù Rajiva đã
thông tỏ chân lý của Phật giáo Đại Thừa từ lâu, nhưng cậu vẫn phải thọ giới Cụ Túc
giống như những tăng sĩ bình thường khác khi đến tuổi hai mươi.
Tôi đã
từng nhìn thấy khu vực thọ đại giới của tăng sĩ tại chùa Long Hưng, thuộc huyện
Chính Định, gần Thạch Gia Trang, tỉnh Hà Bắc, một ngôi chùa được xây dựng từ
thời nhà Tùy. Nhưng ở đó không có hành lang dài và u ám như thế này. Những ngôi
chùa đủ tư cách truyền giới Cụ Túc không nhiều, đó phải là những ngôi chùa quy
mô lớn. Chùa Cakra là ngôi chùa duy nhất ở Khâu Từ đủ tư cách truyền đại giới.
Bước
chân vào dãy hành lang ảm đạm, hun hút ấy, hẳn trong lòng mỗi Sa di không khỏi
dâng lên những suy cảm. Vậy là ta đã quyết, cả đời này sẽ gắn bó với kinh kệ,
khói hương. Cả đời này sẽ từ bỏ mọi tình ái và dục vọng. Cả đời này, sẽ gánh
vác trách nhiệm truyền bá giáo lý Phật pháp. Những suy cảm đó sẽ theo các Sa di
chầm chậm bước đến điểm tận cùng của con đường – giới đàn (nơi tăng sĩ thọ
giới). Ba vị pháp sư, bảy người làm chứng, hình ảnh chiếc dao cạo sáng lấp lóa,
những tiếng tụng kinh lầm rầm trang nghiêm. Kể từ giây phút này, bước ra khỏi
sự sống chết, thoát ly khỏi tham lam, dục vọng, đoạn tuyệt với thế tục…
Tôi
quay đầu nhìn Rajiva đang yên lặng ngóng về dãy hành lang ảm đạm ấy, vẻ mặt
chất đầy suy tư. Có lẽ cậu cũng đang nghĩ về ngày trọng đại ấy. Rồi đây, trần
ai, thế tục sẽ không còn duyên nợ gì với cậu ư, Rajiva?
Chúng
tôi bước vào một gian thờ ánh sáng yếu ớt, các nhà sư khác thấy Rajiva liền
cung kính hành lễ, Rajiva gật đầu đáp lại rồi trò chuyện đôi câu với họ bằng
tiếng Phạn. Gian thờ này không lớn, ở giữa đặt tượng Bồ Tát Địa Tạng Vương, bốn
phía xung quanh là những bức bích họa. Tôi nhận ra tượng Bồ Tát Địa Tạng vì
trên tay ngài có một cây tích trượng rất dài. Bồ Tát Địa Tạng từng thề rằng:
“Chúng
sinh độ tận, phương chứng bồ đề
Địa
ngục vị không, thệ bất thành Phật”.
Nghĩa
là:
Cứu độ
chúng sinh hết khổ, mới là Giác Ngộ
Địa
ngục còn chưa trống không, thề không thành Phật.
Điều đó
có nghĩa, đối tượng cứu khổ của Bồ Tát Địa Tạng là những sinh linh tội lỗi dưới
Địa Ngục. Vì vậy, sau khi Phật giáo được truyền bá vào Trung Nguyên, sức ảnh
hưởng của vị Bồ Tát này ngày càng trở nên rộng rãi, cùng với Văn Thù, Phổ Hiền
và Quan Âm, ngài được xem là một trong bốn vị Đại Bồ Tát. Tương truyền, Cửu Hoa
Sơn ở An Huy chính là đạo tràng thuyết pháp của ngài.
Tôi
đang quan sát và phân tích tỉ mỉ để nhận ra điểm khác biệt về tạo hình giữa Bồ
Tát Địa Tạng ở Tây vực và Bồ tát Địa Tạng ở Trung Nguyên. Một chú tiểu từ bên
ngoài bước vào, mang theo một ngọn đèn dầu, chuyển cho Rajiva rồi lẳng lặng lui
ra. Rajiva nâng cao ngọn đèn, để ánh sáng chiếu rọi lên những bức vẽ trên
tường. Lúc này, trước mặt tôi là hình ảnh những cánh tay tàn phế, những đôi
chân gẫy gập, là biểu cảm đau đớn tột cũng trên những khuôn mặt người, là đủ
mọi loại dụng cụ tra tấn, trừng phạt đẫm vệt máu. Quả rất đáng sợ!
Những
bức họa này mô phỏng nỗi thống khổ của chúng sinh nơi tám địa ngục lớn.
Chả
trách điện thờ này đặt tượng Bồ Tát Địa Tạng, lại âm u, ảm đạm đến vậy. Có lẽ
mục đích là khiến cho các tín đồ cảm thấy kinh sợ trước những hình ảnh rùng rợn
dưới các tầng địa ngục. Ở hầu hết các ngôi chùa từ quy mô trung bình trở lên
đều có những bức bích họa phóng tác như thế này.
Tôi có
biết về tám địa ngục lớn, nhưng không nhớ tên gọi cụ thể, nên đã nài nỉ Rajiva
diễn giải.
- Đây là
địa ngục đẳng hoạt (địa ngục chết đi sống lại). Chúng sinh mắc tội sa xuống địa
ngục này là những người vẫn còn chút tình cảm, họ không nguôi ngoai nỗi thương
nhớ cha mẹ. Nhưng móng tay họ sẽ biến thành vuốt sắt, họ cấu xé lẫn nhau và khi
tâm thần bấn loạn, họ cào cấu chính mình, cho đến khi thịt nát máu cạn và họ
tắt thở. Nhưng một luồng gió lạnh thổi đến, da thịt hồi sinh, họ lại tiếp tục
chịu sự trừng phạt như lúc trước.
Giọng
nói của Rajiva đượm vẻ u buồn, cậu dừng lại giây lát rồi mới tiếp tục:
- Những
người m