Old school Swatch Watches
Đức Phật Và Nàng

Đức Phật Và Nàng

Tác giả: Đang cập nhật

Thể loại: Truyện ngôn tình

Lượt xem: 326264

Bình chọn: 8.5.00/10/626 lượt.

ói điều đó với Rajiva, sợ cậu ấy không vui. Tôi bắt chước Rajiva,

chắp tay cúi lạy thành kính và cắm hương lên khối ngọc thần thánh. Bước ra khỏi

điện thờ nổi tiếng ấy, tôi chợt thấy một hành lang rất dài chạy hút về phía

sau, nhưng hai bên được che phủ kín đáo, nom có vẻ tối tăm âm u kỳ lạ và cảm

giác như nó kéo dài đến vô tận.

Thấy

tôi lặng lẽ quan sát hành lang kỳ lạ đó hồi lâu, Rajiva đến bên, nhẹ nhàng lên

tiếng:

- Đó là

nơi thọ đại giới. Cô là người phàm, không được phép vào đó.

Thọ đại

giới tức là thọ giới Cụ Túc (Upasambada)! Chẳng khác nào nhận bằng tốt nghiệp

đại học chuyên ngành Phật học dành cho các đệ tử nhà Phật! Chỉ khi đã thọ giới

Cụ Túc, mới được xem là đủ tư cách và điều kiện để trở thành một Tỷ khâu

(Bhikkhu). Rajiva nổi danh khi còn rất trẻ, những tri thức Phật học và sự giác

ngộ Phật pháp của cậu, giới tăng sĩ đương thời, không ai bì kịp. Nhưng, cho dù

đạt được cảnh giới cao đến đâu về kiến thức Phật học, cậu vẫn phải tuân thủ

những quy định của giới tu hành trong các thiền viện. Vậy nên, mặc dù Rajiva đã

thông tỏ chân lý của Phật giáo Đại Thừa từ lâu, nhưng cậu vẫn phải thọ giới Cụ Túc

giống như những tăng sĩ bình thường khác khi đến tuổi hai mươi.

Tôi đã

từng nhìn thấy khu vực thọ đại giới của tăng sĩ tại chùa Long Hưng, thuộc huyện

Chính Định, gần Thạch Gia Trang, tỉnh Hà Bắc, một ngôi chùa được xây dựng từ

thời nhà Tùy. Nhưng ở đó không có hành lang dài và u ám như thế này. Những ngôi

chùa đủ tư cách truyền giới Cụ Túc không nhiều, đó phải là những ngôi chùa quy

mô lớn. Chùa Cakra là ngôi chùa duy nhất ở Khâu Từ đủ tư cách truyền đại giới.

Bước

chân vào dãy hành lang ảm đạm, hun hút ấy, hẳn trong lòng mỗi Sa di không khỏi

dâng lên những suy cảm. Vậy là ta đã quyết, cả đời này sẽ gắn bó với kinh kệ,

khói hương. Cả đời này sẽ từ bỏ mọi tình ái và dục vọng. Cả đời này, sẽ gánh

vác trách nhiệm truyền bá giáo lý Phật pháp. Những suy cảm đó sẽ theo các Sa di

chầm chậm bước đến điểm tận cùng của con đường – giới đàn (nơi tăng sĩ thọ

giới). Ba vị pháp sư, bảy người làm chứng, hình ảnh chiếc dao cạo sáng lấp lóa,

những tiếng tụng kinh lầm rầm trang nghiêm. Kể từ giây phút này, bước ra khỏi

sự sống chết, thoát ly khỏi tham lam, dục vọng, đoạn tuyệt với thế tục…

Tôi

quay đầu nhìn Rajiva đang yên lặng ngóng về dãy hành lang ảm đạm ấy, vẻ mặt

chất đầy suy tư. Có lẽ cậu cũng đang nghĩ về ngày trọng đại ấy. Rồi đây, trần

ai, thế tục sẽ không còn duyên nợ gì với cậu ư, Rajiva?

Chúng

tôi bước vào một gian thờ ánh sáng yếu ớt, các nhà sư khác thấy Rajiva liền

cung kính hành lễ, Rajiva gật đầu đáp lại rồi trò chuyện đôi câu với họ bằng

tiếng Phạn. Gian thờ này không lớn, ở giữa đặt tượng Bồ Tát Địa Tạng Vương, bốn

phía xung quanh là những bức bích họa. Tôi nhận ra tượng Bồ Tát Địa Tạng vì

trên tay ngài có một cây tích trượng rất dài. Bồ Tát Địa Tạng từng thề rằng:

“Chúng

sinh độ tận, phương chứng bồ đề

Địa

ngục vị không, thệ bất thành Phật”.

Nghĩa

là:

Cứu độ

chúng sinh hết khổ, mới là Giác Ngộ

Địa

ngục còn chưa trống không, thề không thành Phật.

Điều đó

có nghĩa, đối tượng cứu khổ của Bồ Tát Địa Tạng là những sinh linh tội lỗi dưới

Địa Ngục. Vì vậy, sau khi Phật giáo được truyền bá vào Trung Nguyên, sức ảnh

hưởng của vị Bồ Tát này ngày càng trở nên rộng rãi, cùng với Văn Thù, Phổ Hiền

và Quan Âm, ngài được xem là một trong bốn vị Đại Bồ Tát. Tương truyền, Cửu Hoa

Sơn ở An Huy chính là đạo tràng thuyết pháp của ngài.

Tôi

đang quan sát và phân tích tỉ mỉ để nhận ra điểm khác biệt về tạo hình giữa Bồ

Tát Địa Tạng ở Tây vực và Bồ tát Địa Tạng ở Trung Nguyên. Một chú tiểu từ bên

ngoài bước vào, mang theo một ngọn đèn dầu, chuyển cho Rajiva rồi lẳng lặng lui

ra. Rajiva nâng cao ngọn đèn, để ánh sáng chiếu rọi lên những bức vẽ trên

tường. Lúc này, trước mặt tôi là hình ảnh những cánh tay tàn phế, những đôi

chân gẫy gập, là biểu cảm đau đớn tột cũng trên những khuôn mặt người, là đủ

mọi loại dụng cụ tra tấn, trừng phạt đẫm vệt máu. Quả rất đáng sợ!

Những

bức họa này mô phỏng nỗi thống khổ của chúng sinh nơi tám địa ngục lớn.

Chả

trách điện thờ này đặt tượng Bồ Tát Địa Tạng, lại âm u, ảm đạm đến vậy. Có lẽ

mục đích là khiến cho các tín đồ cảm thấy kinh sợ trước những hình ảnh rùng rợn

dưới các tầng địa ngục. Ở hầu hết các ngôi chùa từ quy mô trung bình trở lên

đều có những bức bích họa phóng tác như thế này.

Tôi có

biết về tám địa ngục lớn, nhưng không nhớ tên gọi cụ thể, nên đã nài nỉ Rajiva

diễn giải.

- Đây là

địa ngục đẳng hoạt (địa ngục chết đi sống lại). Chúng sinh mắc tội sa xuống địa

ngục này là những người vẫn còn chút tình cảm, họ không nguôi ngoai nỗi thương

nhớ cha mẹ. Nhưng móng tay họ sẽ biến thành vuốt sắt, họ cấu xé lẫn nhau và khi

tâm thần bấn loạn, họ cào cấu chính mình, cho đến khi thịt nát máu cạn và họ

tắt thở. Nhưng một luồng gió lạnh thổi đến, da thịt hồi sinh, họ lại tiếp tục

chịu sự trừng phạt như lúc trước.

Giọng

nói của Rajiva đượm vẻ u buồn, cậu dừng lại giây lát rồi mới tiếp tục:

- Những

người m