
ưới bà. Nhưng tôi nghĩ, một cao
tăng “tâm vững như bàn thạch” như Kumarayana nếu không có tình cảm sâu sắc với
Jiva, chắc chắn sẽ không chịu làm quốc sư Khâu Từ, rồi lưu lại nơi này. Ở Ấn
Độ, ông có thể trở thành một tướng quốc kia mà! Nếu không vì người vợ xinh đẹp,
nếu không vì những đứa con thông minh, chắc hẳn ông đã không can tâm với thân
phận một kẻ tha hương. Vì vậy, khi Jiva muốn xuất gia ông đã kiên quyết phản
đối, chỉ đến khi bà một mực tuyệt thực, ông mới đành ngậm đắng nuốt cay chấp
nhận. Giương mắt đứng nhìn người vợ đầu gối tay ấp của mình xuống tóc đi tu, từ
nay gia đình hạnh phúc của ông không còn trọn vẹn nữa, chắc hẳn ông đã rất đau
lòng. Bản thân ông là một tín đồ Phật giáo, lẽ ra ông phải vui mừng khi có
người nguyện dành trọn đời phụng sự Đức Phật mới phải chứ? Nhưng vì sao khi tín
đồ ấy là người ông yêu thương, ông lại chẳng thể nguôi ngoai?
Tôi vén
rèm cửa nhìn ra bên ngoài, xe ngựa chạy rất nhanh, nhưng vì là cỗ xe tốt nên
mức độ rung lắc không quá nghiêm trọng. Từng thửa ruộng đều tăm tắp trôi qua
trước mắt, phía xa xa là dãy Thiên Sơn sừng sững tạc hình lên bầu trời xanh
ngút ngát. Quay đầu lại, bắt gặp ánh mắt Rajiva đang nhìn mình. Lại nhớ chuyện
Kumarayana không bằng lòng để vợ xuống tóc, nhưng lại đồng ý cho cậu con trai
mới bảy tuổi của mình xuất gia. Có lẽ không chỉ vì cậu bé tuổi nhỏ cần có mẹ,
mà còn vì Kumarayana muốn Rajiva ở bên Jiva để chăm sóc bà.
Tôi đắm
chìm trong những suy tư miên man không dứt, bánh xe vẫn đều đặn quay, mí mắt
trùng xuống, nặng trịch. Mấy ngày rong ruổi trên đường khiến tôi thấm mệt. Chợt
thấy vẳng bên tai một giọng nói khẽ khàng, ấm áp:
- Ngải
Tình, nằm xuống chợp mắt đi.
Không
kịp suy nghĩ thêm, tôi ngã đầu xuống, trước lúc thiếp đi chỉ nhớ mang máng là
đã gối trên vật gì đó rất êm, sau đó ngủ say không biết trời đất gì.
Khi
Rajiva đánh thức tôi dậy thì trời đã về chiều, trước mặt tôi là quần thể kiến
trúc nguy nga, đồ sộ chẳng khác nào một thành phố. Rajiva lại đỏ mặt khi tôi mở
mắt ra nhìn cậu ta, chắc là điệu bộ của tôi lúc ngủ khó coi lắm, nên cậu ta mới
như vậy. Tôi thấy hơi xấu hổ, nhưng cảm giác ấy đã nhanh chóng biến mất ngay
sau khi tôi xuống xe và nhìn thấy công trình kiến trúc trước mặt.
Đó là
ngôi chùa nổi tiếng nhất trong lịch sử Khâu Từ - chùa Cakra, được xây dựng dưới
thời Ngụy Tấn, cũng là ngôi chùa lớn nhất còn lưu lại ở Tây vực. Trong “Đại
Đường Tây vực ký” Huyền Trang gọi đó là chùa Chiêu Hộ Li. Khi Huyền Trang đi
Tây Trúc thỉnh kinh và có ghé qua chùa Chiêu Hộ Li, thì ngôi chùa này khi ấy
đang vào giai đoạn cực thịnh. Khuôn viên của chùa kéo dài đến tận vùng gò đồi
và núi cao hai bên bờ phía đông và phía tây sông Tongchang. Ngài Huyền Trang đã
ở lại chùa Cakra giảng kinh trong suốt hơn sáu mươi ngày và ngài đã để lại cho
thế kỷ XXI rất nhiều tư liệu nghiên cứu quý giá về ngôi chùa này. Phía bắc chùa
Cakra có một thôn làng nhỏ của người Duy Ngô Nhĩ (Uygur), nghe nói đó chính là
nơi từng được gọi là “Nước con gái” (Nữ nhi quốc) trong tiểu thuyết “Tây du ký”
nổi tiếng của Ngô Thừa Ân. Nhưng sự thật có phải vậy không thì vẫn chưa ai giải
đáp được. Một số di chỉ thiền động với rất nhiều văn tự Khâu Từ và những bức
bích họa đậm màu sắc Phật giáo nằm trên ngọn núi phía bắc chùa Cakra vẫn được
bảo tồn đến ngày nay. Nghe nói, về sau, những pho tượng Phật trong chùa đã bị
tín đồ Hồi giáo phá hủy, vì họ căm ghét việc sùng bái những thần linh có hình
hài.
Chùa
Cakra lấy sông Tongchang làm đường ranh giới tự nhiên phân tách ngôi chùa thành
hai khu vực phía đông và phía tây. Người dân Kucha ngày nay gọi đó là thành cổ
Subash, là di chỉ quan trọng nhất ở Khâu Từ, bên cạnh Thiên Phật động Kizil.
Ngày nay, muốn đến chùa Chiêu Hộ Li ở Kucha bạn phải nói là đến “thành cổ Subash”,
vì hầu hết những người không nghiên cứu sâu về lịch sử ở Kucha đều không biết
chùa Chiêu Hộ Li là ngôi chùa nào. Tuy nhiên, trên thực tế, thành cổ Subash chỉ
là một thành phố nhỏ nằm ở đầu phía nam của khu chùa phía tây mà thôi. Là thành
phố trực thuộc trong cả khối kiến trúc đồ sộ của ngôi chùa Cakra vĩ đại này.
Subash là nơi nghỉ trọ của khách thập phương khi đến chùa cúng bái. Trong nội
thành Subash, kiến trúc đền tháp chiếm đa số, đi đến đâu cũng thấy những tòa
tháp, tháp lớn tháp bé, khiến người ta mỏi mắt ngắm nhìn.
Chúng
tôi đang có mặt ở nội thành Subash. Rajiva đưa tôi đến một ngôi nhà nhỏ ở nơi
khá hẻo lánh trong thành phố. Người mở cửa là một ông lão, tôi thấy ông rất
quen, ông lão cũng nhìn tôi chăm chú. Tôi nhớ ra rồi, chính là ông cụ quản gia
của phủ quốc sư, tên là Mavasu, là người theo hầu Kumarayana từ Ấn Độ sang Khâu
Từ. Mất một lúc lâu ông lão mới nhận ra tôi và đúng như tôi nghĩ, ông ngạc
nhiên đến mức tay chỉ trỏ vào tôi hồi lâu mà không nói được câu nào. Rajiva
giải thích với ông cụ bằng tiếng Phạn. Ông cụ đã bình tĩnh trở lại, nhưng vẫn
nhìn tôi bằng ánh mắt đầy thắc mắc khi đưa tôi vào nhà.
Khuôn
viên ngôi nhà không rộng lắm, gồm ba gian, hai chái nhà ở hai bên. Và giống nh