
hôm đó, cứ cách năm ba ngày cha lại đưa tôi và anh trai đến chùa. Mẹ đã thay
đổi hoàn toàn, trước kia mỗi khi cha chạm vào người mẹ, mẹ sẽ cười duyên dáng,
nhưng bây giờ, hễ cha định chạm vào người mẹ là mẹ né tránh, rồi mẹ chắp tay
lại hành lễ với cha (mãi về sau tôi mới hiểu nghi lễ đó nghĩa là gì). Còn tôi,
tôi khao khát được mẹ ôm vào lòng, nhưng mẹ chần chừ, do dự. Những lúc như thế,
cha lại ôm chầm lấy tôi, những giọt nước mắt tôi không bao giờ muốn thấy lại
lăn dài trên gò má cha. Lớn lên tôi mới biết, như thế gọi là đau khổ. Và kể từ
đó, tôi không đòi mẹ ôm nữa.
Lần nào
đến chùa, ba cha con cũng ở lại cả ngày liền, ngồi nghe những người mặc bộ
trang phục giống hệt mẹ và cũng không có tóc như mẹ lầm rầm đọc những câu gì đó
tôi không hiểu được. Cha muốn tôi ngồi yên, nhưng tôi cảm thấy bứt rứt, khó
chịu nên lăn ra ngủ lúc nào không biết. Nhưng anh trai tôi thì khác. Anh ấy
lắng nghe rất chăm chú, sau đó đọc lại cho một cụ già những gì anh ấy nghe
được. Cụ già hình như rất mến anh ấy, rì rầm trò chuyện rất lâu với cha mẹ tôi.
Thế rồi, anh tôi nói rằng anh ấy cũng muốn đi tu.
Anh
trai cũng dọn ra khỏi nhà ư? Vậy ai sẽ chơi đùa với tôi?
Tôi gào
khóc ầm ĩ nhưng vẫn không ngăn được anh tôi ra đi. Tôi và cha đành bất lực đứng
nhìn anh ấy khoác lên người bộ quần áo giống hệt mẹ, quỳ dưới đất, để cụ già đó
cạo từng lọn tóc màu đồng dài đến ngang vai của anh ấy. Cha nắm tay tôi rất
chặt khiến tôi muốn kêu đau, nhưng nhìn ánh mắt rầu rĩ, buồn thảm của cha,
không hiểu sao, tôi lại nén được cơn đau ấy.
Anh em
tôi chơi trò đuổi bắt trên mảnh sân nhỏ trong chùa. Anh trai bịt mắt lại, quờ
quạng tìm tôi, tôi nhảy bên nọ nhảy bên kia né tránh. Đã rất lâu rồi tôi mới
lại được chơi vui như thế. Anh trai túm được một người, hớn hở reo lên: bắt
được rồi! Chưa kịp thông báo với anh ấy không phải là tôi, thì anh ấy đã phát
hiện ra. Người đó là sư phụ Phật Đồ Thiệt Di của anh trai tôi, một cao tăng
trong chùa Tsio – li. Thấy sư phụ, khuôn mặt anh trai tôi biến sắc, anh ấy cúi
đầu lắng nghe ông cụ giảng giải về sự tĩnh tâm tọa thiền gì đó. Hôm ấy là lần
cuối cùng anh trai chơi đùa cùng tôi.
Kể từ
đó, mỗi lần đến chùa, tôi lại thấy mẹ và anh trai cầm những cuốn sách rất dày
trên tay, họ chỉ khẽ hé môi cười với cha con tôi. Không ai ôm tôi vào lòng,
cũng không ai chơi với tôi cả, tôi bắt đầu thấy ghét khi phải đến chùa. Nhưng
cha vẫn muốn đi, được thôi, tôi sẽ vờ như mình cũng muốn đi. Từ năm bốn tuổi
tôi đã biết cách đóng kịch để cha vui lòng.
Khi tôi
lên sáu, mọi nơi trong thành Khâu Từ, người ta không ngớt lời bàn tán, khen
ngợi anh trai tôi vì anh ấy đọc thuộc được rất nhiều kinh văn Phật giáo. Mẹ nói
với cha, không thể để anh trai tôi bị vây bọc trong những lời ca tụng ấy, mẹ
nói sẽ đưa anh đi học đạo ở nơi xa. Tôi không nhớ tên địa danh, chỉ biết đó là
một nơi rất xa xôi và phải mấy năm sau họ mới quay về. Cha dắt tay tôi đi tiễn,
nỗi buồn u ám lại hiện lên trong mắt cha. Tôi nghĩ, hẳn là cha rất muốn tôi
khóc tiễn họ, nên tôi đã khóc. Nhưng trong lòng thì tôi rất lấy làm hân hoan vì
từ nay sẽ không phải đến ngôi chùa đó nữa.
Không
đến chùa, cha như mất đi điểm bám víu, ông thường ôm tôi vào lòng, ngồi rất lâu
trong sân nhà, ngước mắt nhìn trời. Sau đó, ông hào hứng kể cho tôi nghe giờ
này họ đang ở đâu, làm gì. Suốt bốn năm, ngày nào cha cũng nói với tôi về việc
anh trai được mọi người khâm phục như thế nào, anh ấy đã nhận một vị cao tăng
làm thầy và anh ấy đã được khen ngợi, tán thưởng ra sao. Người anh trai ngày
càng trở nên mờ mịt trong kí ức của tôi hình như đã trở thành nhân vật nổi
tiếng.
Năm tôi
lên mười thì họ trở về. Đức vua (tức cậu ruột tôi) đã đích thân đi đón họ. Nghe
nói, anh trai đã giành chiến thắng trong một cuộc luận chiến quan trọng ở Wensu
và không ai không biết đến danh tiếng của anh ấy, người ta nói về anh ấy ở mọi
nơi mọi lúc. Lẽ ra tôi phải lấy làm tự hào chứ nhỉ? Tôi có người anh ưu tú như
vậy kia mà? Nhưng khi ai nấy đều chỉ vào tôi thì thào: “Em trai của thần đồng
Kumarajiva kìa”, tôi lại cảm thấy khó chịu vô cùng. Tôi là Pusyseda, nhớ lấy,
tôi không chỉ là em trai của Kumarajiva, tôi còn là tôi, Pusyseda!
Tại
buổi lễ nghênh đón long trọng, tôi đã gặp lại mẹ và anh trai sau bốn năm xa
cách. Thực tình thì đối với tôi, họ thậm chí không thân thuộc bằng những người
hầu trong phủ, nhưng vì muốn cha vui lòng, tôi vẫn nhào vào lòng mẹ. Bốn năm
trời thiếu vắng vòng tay mẹ, nhưng lần đoàn tụ đó không hề khiến tôi vui vẻ. Mẹ
vẫn lạnh lùng như ngày nào. Tôi ngả đầu vào lòng mẹ, tự hỏi không biết phải ôm
đến bao giờ nữa? Đúng lúc đó thì một đôi mắt sáng long lanh chĩa về phía tôi,
đôi mắt ấy trong vắt như nền trời Khâu Từ.
Chỉ
nhìn thoáng qua cũng biết chị ấy không phải người Khâu Từ, dáng vóc nhỏ bé,
thanh thoát. Tôi đã từng gặp những người tóc đen, da vàng như chị ấy trong
thành Khâu Từ, cha tôi bảo họ là người Hán, họ đến từ một nơi rất xa xôi, vượt
qua những sa mạc mênh mông và phải mất một năm dài mới tới được đây.
Tôi
qua