
ó gọi mình đầu hàng!
- Bộ đội mình đâu, sao không đánh nó?
- Chỗ nào cũng chờ bộ đội à? Vậy chứ bà con
mình cụt tay hết rồi sao? Nó vô đây, vác dao vác rựa chém nó ra từng khúc như
khúc chuối, cho bỏ cái thói cướp nước người ta.
- Nghe có lính Bắc Bộ ngoài Cụ Hồ đưa vô rồi
mà!
- Ờ, cũng có nghe đấy!
- Sao lại cũng có nghe? Vô nhiều lắm rồi.
Tướng Vũ Đức chỉ huy. Đâu còn ở mạn trên Phước Long.
Mặt sông vang dậy tiếng người tranh nhau nói.
Ai cũng muốn tỏ ra thông thạo. Ai cũng nói, thành ra không ai nghe ai... Thuyền
chúng tôi cứ xuôi theo dòng nước chèo đi. Tía nuôi tôi định đi về hướng Năm
Căn. ông bàn với má nuôi tôi:
- Năm Căn là xứ tiền rừng bạc biển. Sông rạch
hiểm trở. ở đó toàn là rừng. Rừng đước, rừng mắm, rừng bần... Tây khó bề tới.
Về đó, ta có thể đi đốn củi mướn cho các lò than...
Má nuôi tôi nói xuôi lơ:
- Cái đó tùy ông. ở đâu thì ở, miễn được yên
nơi yên chỗ mà làm ăn. Chứ lênh đênh mãi thế này, tôi e có ngày hai đứa nhỏ
chết lép xác thôi!
Mờ sáng hôm sau, tôi còn đang ngủ trong mui
bỗng nghe thằng Cò gọi giật tôi dậy:
- Mau
ra coi, An ơi! Gần tới sân chim rồi. Đã sáng bét mà mày còn ngủ à?
Tôi
giụi mắt bò ra khoang trước, vốc nước dưới sông lên rửa mặt. Trên vệt rừng đen
ở chỗ con sông ngoặt như lưỡi cưa cá mập chơm chởm dựng đầu răng nhọn đã ửng
lên màu mây hồng phơn phớt. Từ chỗ vệt rừng đen xa tít đó, chim cất cánh tua
tủa bay lên, giống hệt đàn kiến từ lòng quả đất chui ra, bò li ti đen ngòm lên
da trời. Càng đến gần, khi bóng chim chưa hiện rõ hình đôi cánh, thì quang cảnh
đàn chim bay lên giống như đám gió bốc tro tiền, tàn bay liên tri hồ điệp.
Những bầy chim đen bay kín trời, vươn cổ dài như tàu bay cổ ngỗng lướt qua trên
sông, cuốn theo sau những luồng gió vút cứ làm tai tôi rối lên, hoa cả mắt. Mỗi
lúc tôi càng nghe rõ tiếng chim kêu náo động như tiếng xóc những rổ tiền đồng.
Và gió đưa đến một mùi tanh lợm giọng, khiến tôi chỉ chực nôn ọe. Chim đậu chen
nhau trắng xóa trên những đầu cây mắm, cây chà là, cây vẹt rụng trụi gần hết
lá. Cồng cộc đứng trong tổ vươn cánh như tượng những người vũ nữ bằng đồng đen đang
vươn tay múa. Chim già đãy, đầu hói như những ông thầy tu mặc áo xám, trầm tư
rụt cổ nhìn xuống chân. Nhiều con chim rất lạ, to như con ngỗng đậu đến quằn
nhánh cây. Một con điêng điểng ngóc cổ lên mặt nước, thoạt trông tôi tưởng là
một con rắn từ dưới nước cất đầu lên. Khi thuyền chúng tôi chèo đến gần, nó bèn
ngụp xuống lặn mất. Chốc sau đã lại thấy nó nổi lên gần bờ, mỏ ngậm con tôm
xanh gần bằng cổ tay còn đang vung râu cựa quậy. Tôi mê quá! Mà thằng Cò cũng
mê như tôi. Hai đứa cùng ước: phải chi mình được dừng thuyền lại đây vài hôm để
bắt chim thì phải biết! Chim từ những đâu tập trung về ở đây, nhiều không thể
nói được! ở đây, còn có rất nhiều giống chim lạ, không thấy bày bán ở chợ Mặt
Trời. Chúng đậu thấp lắm, đứng dưới gốc cây có thể thò tay lên tổ nhặt trứng
một cách dễ dàng. Tôi chồm người ra be thuyền, kêu to:
- Dừng
lại đây bắt một mớ chim đi, tía!
- Sân
chim có chủ, không bắt của người ta được đâu! -Tía nuôi tôi bảo.
- Bộ
họ nuôi nó sao? Chim trời cá nước, ai bắt được nấy ăn chứ!
- Đúng
là không ai nuôi. Nhưng chim về ở trên vùng đất của ai thì nó thuộc về tài sản
của người đó. Họ phải đóng thuế hằng năm như đóng thuế ruộng đấy, con ạ. Thấp
thoáng trong xa, bốn năm người quảy giỏ, cầm sào trúc có ngoéo sắt đang ngoéo
cổ chim non xuống bắt. Coi bộ dễ hơn bắt gà nhốt trong chuồng. Tiếng chim kêu
vang động bên tai, nói chuyện không nghe nhau được nữa. Thuyền chúng tôi chèo
đi hơn ba nghìn thước rồi mà hãy còn thấy chim đậu trắng xóa trên những cành
cây gie sát ra sông.
Nếu như có ai bảo tôi quay trở lại một nơi nào đó - một bến chợ hoặc
một xóm làng chẳng hạn, nơi mà tôi đã rời đi cách đó chừng dăm ngày -
trở lại bằng đúng con đường cũ mà không được hỏi ai đường đi, thì tôi sẽ chịu thôi. Chỉ mới đi qua một lần thì dứt khoát là không thể nhớ và
không dễ dàng nhận ra con đường cũ. Trông chỗ nào cũng như chỗ nào. Càng đổ gần về hướng mũi Cà Mau thì sông ngòi, kênh rạch càng bủa giăng chi
chít như mạng nhện. Trên thì trời xanh dưới thì nước xanh, chung quanh
mình cũng chỉ toàn một sắc xanh cây lá. Tiếng rì rào bất tận của những
khu rừng xanh bốn mùa, cùng tiếng sóng rì rào từ biển Đông và vịnh Thái
Lan ngày đêm không ngớt vọng về trong hơi gió muối -thứ âm thanh đơn
điệu triền miên ấy ru ngủ thính giác, càng làm mòn mỏi và đuối dần đi
tác dụng phân biệt của thị giác con người trước cái quang cảnh chỉ lặng
lẽ một màu xanh đơn điệu. Từ khi qua Chà Là, Cái Keo... rồi bỏ con sông
Bảy Háp xuôi thuyền trôi theo dòng, thì tôi bắt đầu có cảm giác trên
đây... ở đây, người ta gọi tên đất tên sông không phải bằng những danh
từ mỹ lệ, mà cứ theo đặc điểm riêng biệt của nó mà gọi thành tên. Chẳng
hạn như gọi rạch Mái Giầm, vì hai bên bờ rạch mọc toàn những cây mái
giầm cọng tròn xốp nhẹ, trên chỉ xòa ra độc một cái lá xanh hình chiếc
bơi chèo nhỏ; gọi kênh Bọ Mắt vì ở đó tụ tập không biết cơ man nà