
hợ này được đâu hơn
một tháng. Ban ngày, tôi có thể tạm quên nỗi buồn nhớ ba má tôi bằng cách đi
chơi đây đó, vui đùa với bọn nhỏ và các anh thanh niên. Nhưng ban đêm, tôi
thường giật mình thức giấc thấy mình nghiêng mặt trên cánh cánh tay gối đầu ướt
đầm nước mắt..
Những con đường hàng me mượt mà lớp lá xanh
non sau những trận mưa đầu mùa, suốt ngày vi vu tiếng kêu của những bầy ong
không ngớt bay lượn trên những chùm hoa, làm rơi lả tả những cánh hoa trắng bé
xíu trên đầu bọn học trò nhỏ chúng tôi. Những con đường hàng xoài, mùa quả năm
nào cũng có những chú pô lít (Cảnh sát) áo vàng cứ trưa lại núp trong các ngõ
hẻm rình chộp lấy chiếc giàn thun (giàn ná, súng cao su) của mấy đứa trẻ trốn
bố mẹ, vờ đi học sớm để ra đó bắn quả xanh... Những đêm thứ bảy, ba tôi thường
dắt tôi ra cầu tàu lục tỉnh ngồi xem ông thả mồi, buông một sợi câu rất dài,
câu cá bông lau. Thành phố yên tĩnh dưới trăng khuya. Tiếng gió rì rào trên
những ngọn dương trồng dọc con đường đá đỏ chạy cặp theo bờ sông Tiền Giang,
lác đác một vài người đi dạo đêm đứng dưới cội cây, hoặc ngồi trên bậc cầu đá
nhìn ra dòng nước mênh mang nhấp nhánh ánh lửa thuyền câu.
Tôi đã lớn lên trong cái thành phố vừa đông
vui trù mật vừa yên tĩnh dịu dàng, tràn ngập một thứ gió sông nhiễm đầy mùi phù
sa và nắng ấm đó cho đến ngày "đằng mình" cướp chính quyền.....
Lần đầu tiên, tôi nghe ba
tôi nói hai tiếng "độc lập" với một vẻ mặt dầy xúc động:
- Bà nó ơi, độc lập rồi? Thằng An, mày có
biết không, Tổ quốc ta từ nay độc lập rồi.
Ông lắp bắp nói như vậy, mặt mũi tay chân đỏ
bừng như con gà trống. Và bằng một dáng điệu rất tự hào, ba tôi đứng nghiêng
đầu nhìn lá cờ đỏ sao vàng treo trên bục ảnh HỒ Chí Minh mà các anh thanh niên
Tiền phong vừa dựng Ở chỗ ngã ba đường, ngay trước cửa nhà tôi.
Trường học của chúng tôi đóng cổng mấy hôm
cho học sinh nghỉ ngơi đi biểu tình mừng ngày độc lập. Thành phố nhuốm màu đỏ
rực của băng, cờ, khẩu hiệu ngày đêm rầm rập bước chân của thanh niên, phụ nữ
Tiền Phong, của Cộng hòa vệ binh, của các đội dân quân cách mạng vũ trang, của
dân chúng từ các làng quận xa xôi kéo về tỉnh mừng ngày hội lớn có một không
hai đó. Thực ra thì bấy giờ tôi cũng không hiểu hết ý nghĩa của danh từ
"độc lập" là ra sao cả. Chỉ biết rằng thằng cò Tây, bọn lính Tây
trong thành san-dá trước đây hay đuổi học sinh chúng tôi và thường bắt bớ đánh
đập dân chúng, đã bị mình bắt bỏ vào khám sau một hồi chúng nó nổ súng lẹt đẹt
chống cự lại ta, và bọn binh lính Nhật đóng trong thành phố lúc trước, giờ đây
ra đường cúi mặt xuống, lê chiếc gươm dài như lê một khúc củi mục mà đi thất
thểu.
Và tất cả các công sở, nhà máy trước kia do
bọn chủ Pháp, chủ nhật cai quản, nay đầu thuộc về mình.
Chưa được hai mươi hôm, bỗng xôn xao nghe tin
giặc pháp lại nổ súng đánh ta ở Sài Gòn. Thành phố tôi còn đang vui tở mở như
bọn trẻ chúng tôi thi chỉ qua một đêm nghe biến cố, đã trở nên nghiêm nghị như
một cụ già. Ông già Tám đánh xe ngựa ở sát cạnh nhà tôi lúc nào cũng sẵn sàng
một ngọn tầm vông, chỉ chờ dịp xông ra đâm chết lũ giặc. Người ta rèn vũ khí,
người ta chuẩn bị lương khô, "ai có dao dùng dao. có mác dùng mác" -
đúng như lời trong bảng hiệu triệu của hai ông Hoàng Quốc Việt và Cao Hồng Lãnh
thay mặt Tổng bộ Việt Minh kêu gọi dân chúng xông ra bảo vệ nền độc lập của Tôi
quốc mới phôi thai.
Này thanh niên ơi, đứng lên đáp lời sông
núi...
Trong dêm dài mù mịt tầm tã giọt mưa rơi, hay
giữa ngày nắng chói chang dưới ánh mặt trời nóng như thiêu như đốt ở khắp góc
phố, bờ sông, ngõ hẻm, bãi chợ, đầu cầu trong những khu vườn ngoại Ô lan dài
đến tận ruộng đồng và các xóm làng xa, tiếng hát cứ bồng lên như sóng, âm vang
chưa dứt đầu này đã nghe nổi.lên dồn dập ở chỗ cuối kia. Hình như không phải là
người ta đang hát, mà họ gào lên với tết cả tâm hồn khát khao yêu nước yêu độc
lập thì đúng hơn... Ủy ban nhân dân Nam Bộ từ Sài Gòn chuyển về đóng ở thành
phố tôi, binh sĩ bị thương ở các mặt trận chung quanh Sài Gòn - Chợ Lớn chở về
nằm chật các giường bệnh của y viện tỉnh. Ngày nào cũng có đoàn xe tô chở thanh
niên Tiền phong, thanh niên Cứu quốc, cảm tử quân từ trong thành phố chạy ra
hướng Trung lương đi về các vùng Phú Lâm, Chợ Đệm, nơi đang diễn ra các trận
đánh ác liệt giữa các sư đoàn dân quân cách mạng với bọn giặc Pháp núp sau lưng
bọn lính ăng-lê lính Ấn Độ mang danh nghĩa Đồng minh vào tước khí giới Nhật và
lén lút từ trong thành phố đánh ra.
Đêm, tôi thường rất ít ngủ. Giấc ngủ cứ chập
chờn trong tiếng bánh ôtô chuyển rung động phố chở thanh niên ra mặt trận,
trong những lời hát sôi nổi bằng giọng trầm hùng của những anh sinh viên, học
anh cỡ lớn
“xếp bút nghiên lên đường tranh đấu, xếp bút
nghiên coi thường công danh..."
Có khi tôi chiêm bao thấy mình đã lớn mặc áo
sơ mi trắng lồng vào quần sóc đen, đầu đội nón bàng rộng vành, bên lưng đeo dao
găm, tay cầm tầm vông đứng gác trước trụ sở Uy ban nhân dân như một anh thanh
niên Tiền phong thực thụ. "Đánh giặc cũng vui chứ Tôi thường nghĩ như vậy