Disneyland 1972 Love the old s
Đất Rừng Phương Nam

Đất Rừng Phương Nam

Tác giả: Đang cập nhật

Thể loại: Truyện ngôn tình

Lượt xem: 321912

Bình chọn: 8.00/10/191 lượt.

ra mềm yếu trước mọi người...

Mãi đến chiếu hôm sau, vẫn không tìm ra tung tích vợ chồng Tư Mắm. Ai gặp tôi cũng hỏi, cũng bắt tôi phải kể đi kể lại có hàng trăm bận. Cả

chợ nhao lên. Người ta nhìn nhau, ai cũng có vẻ đáng nghi ngờ. Lão Ba

Ngù đứng giữa dám đông, vỗ trán kêu lên:

- Tôi biết cái thằng có đôi vai rộng bè, lưng khom khom như con giả nhơn ấy rồi!

- Lại bịa nữa? Biết thì nói, không thì thới. Chẳng ai ép đâu nhá! - một ông bạn rượu của lão Ba Ngù khịt mũi nói như vậy.

Sao lại không? Nó là thằng cùi. Mấy hôm nọ, tôi thấy nó nằm dưới xóm

Đập Đá. Đúng là nó! - Lão Ba Ngù khẳng định như vậy, và chờ cho mọi

người đưa mắt ngơ ngác đợi lão nói tiếp, lão mới e hèm mấy cái, tặc

lưỡi:

- Chà, nó không phải cùi đâu! Nó lấy thịt thối buộc giẻ rách bó vào

chân, ruồi nhặng đến bu vo ve, ai thấy cũng tởm, chẳng ai muốn đến gần.

Hóa ra có hồi nó ngồi ngay trước mặt mình mà mình tránh đi, để lúc nó

chuồn rồi mới ba chân bốn cẳng chạy đi lùng?

Không biết lão Ba Ngù nói vậy có đúng không, nhưng chẳng thấy ai bác

bẻ lại lão. CÓ điều mọi người trong chợ đều nhất trí nhận định là: "Đích thị vợ chồng Tư Mắm đã đốt quán trước khi rút lui. CÓ thể chúng đặt

trước một mồi lửa. khi đi xa rồi, quán mới bốc cháy. Dân trong chợ mắc

lo chữa cháy dù có biết cũng muộn rồi, không đuổi theo kịp chúng nó

nữa".

Quán rượu dì Tư Béo cháy sạch trong đêm đó. Nhưng còn được chiếc

thuyền mui ống, nhờ có người đẩy ra kịp mương nên chỉ cháy sém một bên

mui. Dầu sao thì hai chiếc túi bóng mỡ cài kim băng của bà chủ quán rượu cô độc cũng chưa hề hấn gì. Bà ta quyết định không cất lại quán trên

mảnh đất xúi quẩy này nữa. "Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí" mà?

Phải mau mau rời khỏi chỗ này thôi. Dì Tư Béo không ngớt than vãn như vậy, và sau cùng quả quyết bảo tôi:

- Con ơi? Đi với dì xuống Thới Bình đi!

- Cháu ở lại đây thôi. Cháu còn chờ một ngươi quen...

Tôi đáp với bà ta như vậy, chứ thật ra tôi có chờ ai đâu. May ra

trong số người qua lại xóm chợ này, tôi có thể tìm một người quen nào

chăng. Ba má tới thì chắc chắn là còn ở bên kia sông Hậu Giang, chẳng

bao giờ xuống tới chốn này.

- Số trời bắt tao phải sống một thân một mình. Thôi thì cũng đành!

Nếu mai kia mốt nọ... con có dịp về gần Thới Bình, cứ hỏi thăm tên dì,

ắt dì cháu ta còn có cơ hội gặp nhau...

Bà ta sụt sịt, giúi vào tay tôi một đòn bánh tét, nặng nề bước xuống

chiếc thuyền vừa thoát khỏi trận hỏa tai, rồi nhổ sào tách bến.

Trời sâm sẩm tối. Tôi đứng dưới gốc cây gáo cổ thụ, lổm nhổm những

mảnh lu mảnh vại vỡ, bên đám tro tàn còn phảng phất mùi rượu cháy chua

tanh Tôi đứng im lặng một mình như vậy, nhìn theo vạt áo trắng của dì Tư đang chèo khuất dần trong bóng tối của mặt nước dòng kênh. Lát lâu sau, tôi bỗng cảm thấy rưng rưng một nỗi buồn lạ lùng không sao xua đi được, một thứ trống rỗng ùa vào tâm hồn, khiến tôi gần như sợ hãi. Tôi chạy

theo gọi: " Dì Tư ơi? Dì Tư Chờ cháu với... "

Tôi vấp mấy cái trong bóng tối, suýt ngã xuống nước.

Màn đêm lặng lẽ buông trùm xuống những ngọn sóng xôn xao trên mặt nhóc cuồn cuộn, không biết chảy về đâu.

Dì Tư Béo đã đi rồi. Cả bác tài công già

trong đoàn thuyền vận tải quân lương và anh học sinh cô-le đã cho tôi chiếc áo

vét-tông, hiện giờ cũng không biết ở đâu.

Phải chăng những người mà số mệnh đã run rủi

cho tôi gặp họ trên đường giạt trôi vì khói lửa đều vội vàng tất bật buông rơi

tôi lại, bỏ tôi trơ trọi giữa đường? Mà tôi chỉ là thằng bé từ lúc còn lẫm chẫm

biết đi cho đến mấy tháng trước đây chưa hề rời khỏi thành phố mình sinh

trưởng. Hay đó là thử thách của cuộc đời đối với tôi chăng?

Anh Sáu tuyên truyền bảo tôi về ở với anh.

Ban ngày tôi theo anh ra quét dọn phòng thông tin, tô lại những khẩu hiệu cũ. Ban

đêm thì tôi bạ đâu ngủ đấy. Có khi tôi ăn và ngủ ở nhà anh, nhưng cũng có nhiều

bữa tôi ăn cơm nơi nhà người khác, phần đông là các anh thanh niên trong chợ.

Bởi họ thấy tôi dễ bảo có chút ít chữ nghĩa, lúc nào cũng sẵn sàng giúp họ viết

những khẩu hiệu xanh đỏ lòe loẹt bằng các thứ kiểu chữgô-tích, ba-tông, broa...

Đôi khi tôi còn chịu khó ngồi nắn nót vẽ nhũng chữ hoa trên góc các vuông khăn

vải phin trắng còn thơm mùi hồ mà các chị phụ nữ Tiền phong đã cậy tôi vẽ để họ

thêu...

Tôi làm các công việc vặt này một cách say

sưa, bởi đó là thích thú của tôi, đồng thời cũng muốn phô khoe chút tài khéo

léo của mình. Anh Sáu tuyên truyền chẳng đã nhiều lần khen tôi là một thằng bé

có "hoa tay" đấy ư.

Dẫu sao thì tôi cũng vẫn buồn. Cái hy vọng

gặp lại ba má tôi và ngày mình có thể trở về thành phố quê hương cứ khuấy động

trong tôi một nỗi buồn nhớ không nguôi.

Nhưng tôi tuyệt nhiên không hề hé môi thốt ra

một lời than vãn. Thảng hoặc có một vài người nào đó lưu tâm hời hoàn cảnh gia

đình cha mẹ tôi ở đâu... thì tôi đều kiếm cớ nói tránh đi, hoặc lái câu chuyện

về một hướng khác. Tôi không muốn thấy ai bày tỏ lòng thương hại đối với mình.

Bởi vì, nói cho cùng chung đem lại một kết quả gì mà chỉ gây thêm tủi cực, xót

xa hơn cho mình sau đó.

Tôi sống lần hồi ở xóm c