
ng giấy trắng để viết mấy
chữ theo quy định.
Lần ấy rất nhanh chóng
tìm ra kẻ phản cách mạng hiện hành, đó là một học sinh nam vốn rất ngớ ngẩn tên
là Dư Kiến Thiết. Cậu ta lúc tan học không có việc gì làm, liền lấy phấn ra
viết viết vẽ vẽ lên bảng đen, tiện tay viết một câu của Mao Chủ tịch: “Xin đừng
quên đấu tranh giai cấp”, vì thiếu cẩn thận, “đừng quên” thì cậu ta viết thành
“quên”. Khốn đốn hơn nữa là, gia đình cậu ta thuộc thành phần bất hảo, bố là
phú nông, vậy là sự việc trở nên phức tạp. Cho dù cậu ta thanh minh rằng mình
viết sót một chữ vẫn không ai tin. Câu này không phải chỉ có hai chữ, tại sao
không bỏ sót chữ nào khác mà bỏ sót chữ quan trọng nhất? Kiến Thiết bị bắt ngay
tại chỗ, về sau thế nào Thu không biết.
Thu suy nghĩ, cuối cùng
cô không nỡ xé lá thư của Ba. Thu chỉ xé dòng chữ in tên đội thăm dò trên đầu
trang giấy và xé cả tên anh cùng tên mình trên đó, vứt vào nhà vệ sinh. Sau
đấy, Thu tìm một mảnh vải khâu thành cái túi bên trong áo bông, bỏ lá thư và
mấy câu thơ của Ba vào đấy, dùng kim chỉ khâu kín lại, đường chỉ khâu chìm,
không nhìn kỹ sẽ không thấy.
SAU NGÀY VỀ THÀNH PHỐ,
Thu bắt đầu đến lớp học. Nhưng thời gian ấy phần lớn học sinh tham gia hoạt
động ngoại khóa, học công nhân, học nông dân, học y thuật, học đủ thứ, chỉ duy
nhất không học kiến thức trong sách vở, cho nên về được ít lâu, lớp của Thu
chuyển sang học y.
Phần lớn học sinh của lớp
Thu do giáo viên chủ nhiệm đưa xuống thị trấn Quan Lâm thuộc huyện D, ở đấy có
một phân viện của quân y viện, học sinh ở nhờ nhà bà con nông dân, học y trong
quân y viện. Vì nhà nghèo, Thu không có tiền trả tiền đi đường và tiền ăn, Thu
cùng mấy học sinh gia đình thuộc diện cực kỳ khó khăn được ở lại thành phố K,
đến mấy bệnh viện trong thành phố để học. Nhưng nhà trường cảm thấy Thu và mấy
học sinh ở lại thành phố không đạt mức độ gian khổ như về nông thôn, sẽ không
có lợi cho sự trưởng thành, vậy là giao cho thấy Trịnh, hiệu trưởng trường tiểu
học trực thuộc, đưa mấy cô cậu này học đông y.
Nhà thầy Trịnh ở thôn Phó
Gia Xung, một thôn miền núi nhỏ gần Nghiêm Gia Hà, cha của thầy Trịnh là “thầy
thuốc chân đất” của đội sản xuất, thầy Trịnh cũng học được vài môn như giác,
châm cứu, thừa sức dạy lại bọn Thu.
Thu và mấy đứa bạn rất
bận, cuối tuần chỉ học một ngày Chủ nhật. Hễ đến thứ Bảy, Thu phải vào bệnh
viện để học, đi làm như y tá bệnh viện; Chủ nhật học giác, học châm cứu của
thầy Trịnh, thỉnh thoảng lại ra ngoại thành tìm thảo dược, chữa bệnh cho bà con
trung nông lớp dưới, bận rộn suốt ngày.
Những lúc về nông thôn
tìm thảo dược, đi trên những lối mòn trong làng, nhất là vào lúc chiều tối,
khói bếp lan tỏa, Thu lại nhớ những ngày ở Tây Thôn Bình, nhớ cảnh lần đầu gặp
Ba, lòng lại trào lên nỗi buồn vô cớ, cảm giác như sắp khóc. Những ngày ấy, tối
nào, Thu cũng trốn vào chăn, mở cái túi bí mật bên trong áo bông, lấy lá thư ra
đọc. Phần lớn thời gian Thu chỉ nhìn những dòng chữ của Ba viết, vì nội dung
bức thư Thu đã thuộc lòng. Ngay từ đầu Thu rất thích nhìn nét chữ của anh, chữ
anh rất đặc biệt, chữ ký của anh thật đáng yêu, chữ “Tân” chỉ có hai nét, phía
trên một chấm ngang, những nét ở dưới viết liền một nét. Thu lặng lẽ mô phỏng
chữ anh, chep đi chép lại đoạn lịch sử Tây Thôn Bình anh viết giúp, có thể đạt
đến độ thật giả khó phân biệt.
Hồi ấy có bài hát Đọc
sách của Mao Chủ tịch, bài hát có đoạn:
Sách của Mao Chủ tịch,
tôi rất ham đọc, trăm bài í… a…, ngàn bài í… a…, thật công phu, đạo lí sâu sắc,
tôi lĩnh hội sâu sắc lòng tôi í… a… bừng nóng, huầy dô, giống như í… a… ruộng
khô hạn được mưa, mạ non long lanh giọt sương mai… Tư tưởng của Mao Chủ tịch vũ
trang chúng ta… hăng say làm cách mạng í… a… a…
Hồi ấy hát không có nhạc đệm, chỉ hát, miệng đệm la
đô la la đô la nào nào tạo nên cảm giác như có
nhạc đệm.
Thu hát bài này giống như
“nhà sư tụng kinh, có miệng không có lòng”. Nhưng bây giờ đọc thư Ba, Thu mới
thực sự hiểu cảm giác trong bài hát miêu tả, tất nhiên Thu biết như vậy coi như
so sánh anh với lãnh tụ là rất phản động, nhưng thư của anh Thu càng đọc càng
thấy thích đọc. Thu dần dần cảm nhận ý nghĩa sâu sắc trong thư thật ấm lòng.
Ví dụ anh mong Thu tin
rằng “trời sinh ra tài năng ắt phải có chỗ dùng”, hình như Thu rất có tài, hơn
nữa có tài là việc tốt. Thu đã từng nghe nói “có tài” nên rất căng thẳng, là
bởi “có tài” rất có thể nói Thu đi con đường “bạch chuyên”, “chuyên” mà không
“hồng”. Mọi người đều biết, vệ tinh lên bầu trời cờ đỏ sẽ rơi xuống đất, cho
nên người chỉ “chuyên” mà không “hồng” sẽ bị đả đảo.
Những điều ấy nói ra từ
miệng Ba, Thu nghe rất đúng, có thể có tài không phải là chuyện xấu. Sẽ có ngày
lại thi tuyển đại học, Thu sẽ thi để trở thành một sinh viên, vậy thì hay biết
chừng nào!
Trong thư, Thu thích nhất
câu “cho đến khi Thu bằng lòng nói với anh, sẽ nói với anh”, lúc ấy đọc không
có ý nghĩa gì, bây giờ đọc lại cảm thấy hình như anh đang chờ Thu, vì anh mong
Thu trả lời và anh vẫn đang chờ.
Nghĩ đến đ