
ởi thu dọn vài thứ, nghe thấy cô vào cũng không ngẩng đầu.
Hà Hoa: “Bà nội, thầy Chu tới, nói có việc tìm bà.”
Bà Tứ không tỏ vẻ gì chỉ nói: “Bà nghe rồi, để cho thầy ấy vào đi.”
Hà Hoa vâng dạ, mời thầy Chu vào phòng, còn mình trở lại bếp nấu nước, chờ nước
sôi, lấy một ít lá trà thả vào, tráng chén bưng đến phòng của bà Tứ, cô
đứng bên ngoài tấm rèm trước hiên nhà chợt nghe thầy Chu nói: “Cùng ta
trở về thăm lại nơi đó đi.”
Bà Tứ đáp lại một câu: “Có gì đâu mà thăm, trong nhà cũng chẳng còn ai “
Hà Hoa hơi
ngạc nhiên, không dám đi vào. Hai người trong phòng dường như nghe thấy
tiếng động, đều lặng im không nói gì nữa. Hà Hoa vội vào trong phòng,
rót trà cho hai người rồi nhanh chóng đi ra ngoài. Vừa nãy bất chợt nghe thấy những lời đó khiến cô rất tò mò, cô rất muốn đứng bên cửa nghe
lén. Có điều cô không dám, đem khay trà vào phòng rồi trở về phòng mình.
Khi đó,
Trường Sinh đang ngồi bên cạnh bàn chơi với đậu phộng của mình, hắn
ngẩng đầu nhìn Hà Hoa rồi cũng không quan tâm nữa, tiếp tục cúi đầu săm
soi từng hạt đậu phộng lớn bé. Hắn lấy hai hạt đậu phộng gần bằng nhau
giơ lên, nheo một mắt nghiêm túc so tới so lui. Một lúc lâu sau mới chọn ra hạt nào lớn hơn, xếp chúng thật trật tự trên bàn.
Hà Hoa cởi
hài trèo lên giường lò, đẩy cửa sổ he hé ra nhìn trộm về phía phòng bà
Tứ, trong lòng suy nghĩ xem hai câu kia là có ý gì, nghe như hai người
bọn họ cùng đến từ một nơi? Bà Tứ và thầy Chu không phải là dân gốc của
thôn, chẳng lẽ bọn họ là đồng hương? Nếu như vậy ngày thường bọn họ qua
lại hơi thân thiết cũng rất có lý. Có điều chưa từng nghe ai kể chuyện
này…
Hà Hoa ngạc nhiên ngẫm nghĩ, xoay đầu cười thần bí nhìn Trường Sinh vẫy tay: “Trường Sinh, lại đây, lại đây.”
Trường Sinh giương mắt nhìn cô: “Cô muốn sờ phải không?”
Hà Hoa trừng mắt: “Sờ cái đồ chết tiệt nhà huynh!”
Trường Sinh bĩu môi một cái, tiếp tục ngồi xếp đậu phộng.
Hà Hoa: “Ta hỏi huynh, huynh có biết bà nội là người ở đâu không?”
Trường Sinh cũng không ngẩng đầu, đáp: “Biết chứ.”
Hà Hoa bò đến gần mép giường, vui sướng hỏi: “Người ở đâu vậy.”
“Người ở thôn chúng ta.” Trường Sinh cúi đầu thản nhiên đáp.
“Ta còn không biết là người ở thôn chúng ta sao?!” Hà Hoa tức giận nói: “Ta hỏi bà nội từ đâu đến.”
“Từ thôn chúng ta đến.” Trường Sinh lơ đãng, thuận miệng trả lời luôn.
Hà Hoa hỏi
một lúc lâu cũng chẳng hỏi được gì, thấy Trường Sinh ngoại trừ việc sắp
xếp cái đống đậu phộng kia thì người nào lớn người nào nhỏ ở ngoài, hắn
chẳng thèm để ý. Cô hơi hờn dỗi, lại dở mánh cũ ra, lớn tiếng gọi:
“Trường Sinh, cho ta ăn đậu phộng!”
Trường Sinh dịch chiếc ghế dựa, đưa lưng về phía Hà Hoa, làm ra bộ dạng gà mái bảo vệ con để che mấy hạt đậu trước mặt mình.
Hà Hoa nói
rất có lý lẽ: “Ta là vợ của huynh, bà nội nói phải thương yêu vợ! Vợ
huynh muốn ăn đậu phộng mà huynh lại không cho ư?”
Trường Sinh cúi đầu không hé răng, một lúc sau lại xoay đầu qua liếc mắt thở phì
phì nhìn Hà Hoa, không cam lòng chút nào đặt một hạt đậu phộng thật mạnh gần lò sưởi trên đầu giường lò.
Hà Hoa đắc ý cầm hạt đậu phộng bỏ vào miệng. Thật ra cô không thích ăn đậu phộng,
nhưng ăn của Trường Sinh lại cảm thấy rất là ngon. Có lẽ là vì nhìn cái
mặt tiếc của thở phì phì của hắn thì cô cảm thấy rất thú vị, cho nên mỗi lần cô muốn ăn đậu phộng của hắn, sẽ đưa câu ‘Phải thương vợ’ của bà
nội ra uy hiếp hắn.
Trong lòng
Hà Hoa cảm thấy thỏa mãn, lại tiếp tục nhích người đến bên cửa sổ nhìn
ra ngoài, vừa ngâm nga một điệu hát dân gian, vừa suy nghĩ xem bà Tứ và
thầy Chu có phải là đồng hương hay không.
Còn Trường
Sinh lại yên lặng đứng một bên tính toán lại… Mười một hạt… Sau khi Hà
Hoa làm vợ hắn đã ăn mười một hạt đậu phộng của hắn, trong khi cưới cô
làm vợ bà nội chỉ cho hắn có mười hạt, đến bây giờ cô đã ăn tổng cộng
mười một hạt, hắn lỗ to rồi… Về chuyện
bà Tứ có phải đồng hương với thầy Chu hay không, Hà Hoa nhanh chóng tìm
được câu trả lời, cũng không phải lén dò hỏi được ở chỗ nào, mà vì lớp
học của thầy Chu tạm thời ngừng dạy, nói là thầy ấy phải về quê thăm
người thân.
Hà Hoa vẫn
luôn ngẫm nghĩ những lời nói của hai người họ mà cô nghe được từ hôm
kia, bà Tứ và thầy Chu nhất định là đồng hương. Cô cảm thấy rất ngạc
nhiên, trong thôn này những người đàn bà lắm chuyện thích nhất là ngồi
lê đôi mách những chuyện vặt vãnh như vậy, nhưng đã bao năm rồi mà lại
không hề có chút phong thanh nào.
Vì hai nhà ở gần nhau, cô cũng nghe được lời ong tiếng ve từ mụ góa Trần về chuyện
của hai người, nhưng cũng chẳng có ai cho là thật, đó chẳng qua là những câu chuyện phiếm không đầu không đuôi. Nhất là bà Tứ không qua lại với
nhiều người, những chuyện đồn nhảm nhí thế này mặc kệ thực hư thế nào
người trong cuộc cũng phải giận dữ hay xấu hổ hoặc ít nhất là cũng có
một chút phản ứng mới làm cho đám bà tám cảm thấy hứng thú. Còn như bà
Tứ, dù người ta có nói bà ấy mười câu bà ấy cũng chả thèm liếc nửa con
mắt để ý đến, nên làm đám người đó cụt cả hứng. Thứ hai là thầy Chu rất
được lòng người, ông ấy xem bệnh cho ngư