
ng đường, ướt như chuột lụt, kéo dài hàng mấy tiếng đồng hồ giữa đồng không mông quạnh, mà chị chủ tịch xã bị cảm sốt thương hàn, có lúc lên tới 40 độ C. Cũng lại điều không may nữa, là tối hôm sau đơn vị pháo cao xạ của Cải được lệnh di chuyển sang huyện khác, cách sông cách đò đến mấy tháng không quay lại. Việc đó trong thời chiến cũng chẳng có gì khó hiểu. Nhưng lại trở nên khó hiểu, khi một vài người vốn đã ghen ăn ghét ở với chị chủ tịch uỷ ban mới tý tuổi đầu mà nghiêm quá thể, liền gắn ngay cái việc hai người chạy mưa vào chiếc lều con giữa đồng không mông quạnh, đêm hôm khuya khoắt để suy diễn, loạn bàn về cái sự lửa gần rơm có trời mà biết. Khi Cải một lần về huyện xác minh lý lịch kết nạp đảng cho một chiến sĩ trong đơn vị, tranh thủ đạp xe xuống nhà thăm, Phượng giữ lại ăn cơm, nhưng Cải chối đây đẩy rằng phải về huyện đội vì đã có hẹn, thì Phượng mới nói: “Anh quên cái đêm mưa gió ấy đi, và nếu không có công việc gì thì cũng không nên gặp em nữa. Còn em, thành thật xin lỗi anh và cảm ơn anh rất nhiều”. Cải hiểu, đó là lời nói thật lòng của một cô gái chan chứa yêu thương và giàu nghị lực, nhưng ở vào hoàn cảnh như thế, cũng khó có cách xử sự nào hơn.
Cải vừa đạp xe chầm chậm trên con đường về thăm ông Mải, vừa như lần giở lại những thước phim tự mình quay, tự mình cất biến từ ngày nảo ngày nào, giờ mới có dịp mang ra lướt qua, chứ cũng chưa có thể dừng lại ngắm nghía lâu hơn nữa…
Nghe ông Mải nói: “Nhanh thế! Quay đi quay lại đã mười mấy năm rồi”, Cải bỗng thấy lòng xốn xang, cứ ngồi thần ra đến mươi giây. Bỗng có tiếng ông Mải hỏi vóng ra ngõ:
- Sao lại xe về thế kia? Không đủ cân à?
Cải quay nhìn ra đầu sân. Một cô gái chừng hăm bốn, hăm nhăm tuổi đang dang hai tay cầm hai càng xe và bà mẹ đi sau đẩy chiếc xe cải tiến vào sân. Trên xe là một con lợn lai trắng lôm lốp nằm thở hồng hộc. Cô con gái ngẩng lên, nói liến thoắng:
- Cân thì thừa bố ạ. Lợn nhà những bảy mươi tám kí cơ mà. Nhưng con với mẹ tay nhẵn như chùi, có đợi đến trưa cũng chả chắc cân được. Thế là ba mươi sáu chước, chỉ còn chước kéo lợn về là chẳng mất gì.
Bà mẹ không biết có nhìn thấy Cải đang ngồi với chồng trên hiên, cứ bô bô:
- Cha tiên sư chúng nó chứ, đã đi mua của người ta còn đòi đút lót. Không thấy bao giờ mua bán lại cửa quyền như bây giờ. Con lợn chỉ có bảy mươi tám cân, mà cái thằng cháu gọi ông chủ tịch xã bằng chú ruột lại ra nhăn nhở rỉ tai: bác muốn bán đợt này thì cứ bổi dưỡng cho chúng cháu mươi kí là xong ngay tắp lự. Tôi bực, bảo con nó xe về. Không bán cho cửa hàng thì gọi thợ thịt vào nó mua. Có sợ ế đâu mà phải quỵ luỵ chúng nó quá thế.
Ông Mải thật thà hỏi:
- Xã không có người nào ở đấy hay sao mà để mấy đứa ngang ngược thế?
Bà Mải vẫn chưa hết tấm tức:
- Thì chính ông chủ tịch Thuật đọc tên từng nhà chứ còn ai. Hai mẹ con xe lợn ra từ sớm, chả biết thế nào lại không có tên trong danh sách, không được phát tích kê. Sau con bé nó sấn lại chỗ đọc tên, dằng được tờ giấy ở tay ông Thuật. Thế là thằng Bính, cháu ông ấy, mới vội chạy ra bảo nó đưa trả danh sách và mang lợn vào cân, không thì còn chờ đến mục thất. Tôi đã bảo bố con ông nhiều lần rồi, nhưng nào có để vào tai. Thời buổi này mà cứ thật thà, thẳng thắn thì chỉ có thiệt đơn thiệt kép. Mình ở làng ở xã, nhất nhất cái gì cũng phải qua tay người ta. Con cháu muốn đi đâu cũng phải ra xã chứng nhận. Có con lợn, hạt thóc muốn bán cũng phải có xã nhận thực không nợ nần công quỹ, không dây dưa nghĩa vụ mới được bán, chứ tự mình cũng không thể. Thế mà bố con ông vẫn cứ ngang cành bứa với người ta, thì đến có con lợn cũng không bán nổi, ông đã thấy chưa!
Ông Mải bỗng thấy lời chì chiết của bà vợ nghe sao hẹp hòi, hèn mọn. Nhưng ngẫm, có khi lại đúng cũng nên.
Ông Mải không nén được nỗi bực dọc cái quân vô loài, nhưng vẫn nhẹ nhàng bảo vợ:
- Không bán được thì thả vào chuồng nuôi, chứ sao bà cứ chì chiết tôi thế!
- Tôi bấn gì phải chì chiết ông. Nhưng cũng không thể không nói cho thiên hạ họ biết, có đời thuở nào quan lại đi ăn chẹt dân thế bao giờ?
Không biết bà vợ ông Mải đã nhận ra Cải đang ngồi với chồng trên hiên kia chưa, nhưng thực, câu nói của bà làm Cải bỗng ngượng chín mặt, chỉ còn thiếu tìm cái lỗ lẻ nào chui tọt xuống cho xong. Dĩ nhiên, những người ấy cũng chỉ là cán bộ, đảng viên dưới quyền lãnh đạo của anh, chứ không phải chính anh mắc lỗi. Nhưng một người lãnh đạo khi nghe người khác kể tội của người dưới quyền, lại không thấy hổ thẹn thì cũng không nên làm người lãnh đạo làm gì nữa. Cải bỗng loé lên ý nghĩ ấy, rồi lại ngồi thần mặt ra, không dám hé răng nửa lời, rằng bác bỏ quá đi cho, hoặc có khi chúng chỉ nói đùa chứ không là thật. Nhưng anh cứ ngồi lẳng lặng thông nõ điếu, đến không còn cái tàn nào dính quanh nõ, rồi mới đặt mồi thuốc lào vào, lấy ngón tay dặt dặt cho những sợi thuốc dính chặt vào nõ điếu. Giây lát mới cầm mẩu đóm châm vào ngọn đèn dầu để bên cạnh. Cái đóm bằng chính thân cây thuốc lào ngâm kỹ, phơi nỏ, tước nhỏ, vừa chạm vào ngọn đèn đã bén lửa cháy ngay. Cải vừa đặt cái đóm gần miệng điếu, liền rít liên hồi