Snack's 1967
A Mạch Tòng Quân

A Mạch Tòng Quân

Tác giả: Đang cập nhật

Thể loại: Truyện ngôn tình

Lượt xem: 328014

Bình chọn: 10.00/10/801 lượt.

cận, gian thần!–

[ hạ thư - thành bản gốc kỉ '>

[ thứ nhất cuốn hoàn '>

—————————

Chú thích:

1- Không phân biệt đông tây: ý nói làm việc không phân rõ nặng nhẹ, chỉ theo cảm tính.

2- Quân hệ: chỉ quân Thanh Châu và quân Dự Châu là hai đội quân độc lập thuộc hai đơn vị khác nhau.

3- Khố phòng: nhà kho

4- Hán gian: nghĩa cũng tương tự như Việt gian của ta trong thời chiến vậy, dùng để chỉ những kẻ theo giặc bán nước.

Vân Nhiễu Sơn là đỉnh núi cao nhất

của dãy núi Ô Lan. Phía Bắc của dãy núi này là nơi khởi đầu của sườn núi Lĩnh Nam, tiếp đến là sông Uyển, phân chia ranh giới với thảo nguyên

Vân Hồ, trong lưu vực sông Bình Nguyên, vượt qua bốn châu Dự, Túc, Ung,

Ích. Trong khoảng không gian trật hẹp giữa núi và sông Bình Nguyên, lúa

mạch cùng các loại hoa màu được gieo trồng dày đặc, bốn phía là các khu

đất trồng sản vật nối tiếp nhau tương đối phong phú. Phía tây thảo

nguyên Vân Hồ, cỏ mọc tươi tốt, vậy nên chiến mã và da thuộc là những

sản vật nổi tiếng ở đây. Phía đông lưu vực sông Bình Nguyên chính là kho lương thực sẵn có của vùng Giang Bắc. Lấy đỉnh ngọn Vân Nhiễu Sơn làm

trung tâm, bốn phía xung quanh đều là núi non trùng điệp, vách đá dựng

đứng. Trong núi, rừng rậm che lấp cả ánh mặt trời, chỉ có ba con đường

nhỏ nhấp nhô, gập ghềnh đi lên đỉnh núi, hình thế hiểm yếu, dễ thủ khó

công, có lợi nhất cho cát cứ quân sự.

Trong tấu chương báo cáo lên triều

đình, danh tướng Bắc Mạc Trần Khởi từng miêu tả quân Giang Bắc của

Thương Dịch Chi như sau: “Phỉ quân Giang Bắc tận dụng địa thế hiểm trở

mà phát triển nhanh chóng. Ở Dự Tây thuộc vùng thượng du Tần Thủy, địa

thế cao ngất. Thế núi tuy cao, nhưng đã bị xâm thực rất sâu, vì vậy mà

không gian núi có nhiều suối lạch, hang hốc bao bọc lấy một phần sông

Bình Nguyên, ngoài ra cũng có một ít ruộng vườn tươi tốt. Lượng mưa đầy

đủ, cây cối xum xuê, núi cao, rừng rậm, dễ thủ, khó công. Bình thường,

phỉ quân ẩn nấp lực lượng tại nhiều khu vực rất cằn cỗi. Sào huyệt quân

Giang Bắc, xét về mặt quân sự thì là nơi hiểm yếu, nhưng khả năng tự

cung tự cấp lương thực lại rất kém. Điểm nổi bất nhất của sào huyệt này

là có rất nhiều mây mù bao phủ, nhiều đầm hồ, địa hình phù hợp nhất cho

việc ẩn nấp, phỉ quân nếu thất bại, sẽ lui về sào huyệt, chặn nơi hiểm

yếu, quyết thủ không chịu xuất quân.”

Đương nhiên, đó đều là nói chuyện về sau này.

Sau trận chiến ở Dự Châu, Thương Dịch Chi dẫn quân lên núi Ô Lan, tiến hành cải biên lại quân đội. Hai quân

Thanh Dự hợp nhất làm một. Thương Dịch Chi là chủ tướng. Trương Trạch,

nguyên phó tướng Dự Châu, làm phó tướng, Từ Tĩnh giữ vai trò quân sư.

Thương Dịch Chi đưa ba bộ binh doanh và hai doanh cung nỏ cùng với doanh đội hậu cần đóng quân ở Vân Nhiễu Sơn, nơi có địa thế hiểm yếu. Các

doanh đội còn lại phân chia ra, trú quanh đỉnh núi mà anh ta đóng quân.

Lại giao hơn hai ngàn kỵ binh cho Đường Thiệu Nghĩa suất lĩnh, từ cốc

khẩu Tần Sơn tiến vào thảo nguyên Vân Hồ, phát huy tính cơ động của kỵ

binh, rèn luyện qua từng trận chiến. Theo như lời Từ Tĩnh nói: người Tây Hồ không phải cái gì cũng tốt, cho nên không cần khách khí, nên thưởng

thì thưởng, đáng chết liền giết! Chúng ta không phải cái gì cũng phải

phụ thuộc vào bọn chúng!

Bộ binh doanh thứ bảy của A Mạch

không thuộc doanh đội của Thương Dịch Chi, cho nên cũng không cùng ngọn

núi Vân Nhiễu Sơn với anh ta, mà lưu trên núi Tây Trạch. Ở Tây Trạch,

sau khi điều chỉnh lại, biên chế trong doanh thứ bảy cũng có biến động,

Lục Cương mặc dù vẫn giữ chức vị giáo úy, là trưởng quan của doanh thứ

bảy, nhưng chức phó quan lại giao cho một giáo úy nguyên thuộc quân Dự

Châu. Người này cũng coi như là nửa người quen, chính là người có khuôn

mặt đen, từng biểu lộ sự phẫn nộ với Thương Dịch Chi ngày ấy ở trong thư phòng của Thạch Đạt Xuân, vốn họ Bạch, nhưng bộ dạng cùng sắc mặt lại

đen như đáy nồi. Chính anh ta cũng rất tức giận chuyện này, cho nên ở

trong quân không ai dám gọi họ của anh ta, mà đều gọi là Hắc Diện, binh

lính bên dưới thì rút gọn họ của anh ta đi mà trực tiếp gọi là “Đại

nhân”.

Khi Lục Cương lần đầu giới thiệu Hắc

Diện với mọi người, sau vài tiếng ho khụ khụ mới mơ hồ nói được mấy

tiếng “Bạch giáo úy”, phía dưới mọi người cười ồ lên. Hắc Diện lúc ấy

lửa giận bốc lên, lập tức đứng lên, cả giận nói: “Cười cái gì mà cười?

Lão tử chẳng phải rất đen sao! Lão tử cũng không phải đàn bà thì đâu cần phải trắng? Vẫn có thể ăn cơm, vẫn có thể ra trận giết địch đấy thôi?”

Nói xong ánh mắt dạo qua một vòng bên dưới, sau đó liền rơi trên người

Ngũ trưởng sếp hàng đứng trên đầu, là A Mạch. Anh ta chỉ vào A Mạch kêu

lên: “A! Ngươi, tên tiểu bạch kiểm này, lên đây cùng lão tử so tay đọ

chân, xem rốt cuộc là ngươi hay Hắc gia gia ta có thể đảm đương tốt chức vụ giáo úy này.”

A Mạch sửng sốt, cảm thấy thật là oan uổng, đúng vậy, nàng cũng cười, nhưng tất cả mọi người đều cười, vậy

thì anh ta dựa vào cái gì mà chỉ đúng vào nàng? Thấy mắt Hắc Diện bốc

lửa đưa tay chỉ vào mình, trong thâm tâm A Mạch khẽ rùng mình, cúi người cao giọng kê