
iệc này. Nhưng trong quyển Phân tích, chứng minh về thơ Đỗ Phủ, HồngHưng Tổ, người đời Nam Tống nhắc tới “hoàng đế Nam Tề bị phế truất, Tiêu Bảo Quyển (còn gọi là Đông Hôn Hầu) quá ham mê thuật quỷ thần, bèn cắtgiấy thành tiền thay cho gấm lụa” (Trích từ Tục đốt tiền giấy trong lễtạ ơn, tập năm). Thời điểm Đông Hôn Hầu giữ ngôi vị chỉ cách năm VĩnhMinh không quá mười năm, xem chừng nói tiền giấy xuất hiện vào thời NamTề là có căn cứ chắc chắn. Nhưng từ lúc phát minh tiền giấy cho đến đờinhà Tấn vẫn là một khoảng thời gian tương đối dài, vì thế hiện tượngchôn tiền thật vẫn còn tồn tại khá phổ biến vào lúc bấy giờ. Trong quyển Nam sử - những chuyện ẩn dật, vị hòa thượng Tăng Nhan trước khi chết đã nói với các đệ tử rằng: “Nay ta phải giã từ nhân gian. Trong hộp kia có cất một nghìn đồng, để ta dùng trên đường xuống nơi chín suối, cây nếnkia sẽ soi chiếu thi thể ta.” Đệ tử của Phật đã như vậy, thì những người bình thường há không làm như vậy sao?
Thói quen trước nay củangười Trung Quốc là luôn coi những phát minh trong dân gian đồng nhấtvới những tên giặc cỏ, phải được tống tiến lên hoàng thượng trước tiên,cho đến khi tất cả mọi vương công khanh tướng đều đã áp dụng, đến lúc đó giấy chứng nhận bản quyền phát minh mới chính thức được cấp cho ngườiphát minh. Vì thế, tiền giấy chưa chắc đã do một người nổi tiếng nào đósáng tạo ra. Vào trước thời Nam Tề, trong dân gian đã sử dụng tiền giấyvào việc tế lễ thần linh và mai táng người chết. Theo rất nhiều sách sửghi chép, tiền giấy được sử dụng rộng rãi trong xã hội phải được bắt đầu từ thời nhà Đường, nhưng nếu truy cứu về vấn đề nguyên thủy của nó, thì như Phong Diễn nói “tiền giấy được bắt đầu sử dụng từ thời Ngụy Tấn” là không sai.
Trước khi tiền giấy xuất hiện, người ta thường đemtiền đồng thật chôn trong mộ khi mai táng người quá cố. Nhưng chỉ nhữnggia đình giàu có mới có thể làm như vậy, còn gia đình nghèo đành lực bất tòng tâm, hoặc cũng chỉ dâng lên vài đồng xu mang tính tượng trưng màthôi. Nhưng những thứ đó đều được chôn xuống mồ cùng với người chết,không thể dùng lại được nữa. Vì thế, có thể suy đoán rằng, ban đầu,những đồng tiền âm phủ được làm từ giấy không những có hình dáng kháchoàn toàn so với những loại tiền âm phủ hiện nay chúng ta được thấy,chúng chắc trông giống với tiền thật lúc bấy giờ hơn, hơn thế nữa, chúng còn được chôn xuống dưới mồ.
Nhưng loại tiền giấy như thế khôngcó tác dụng quan trọng nào trong sự phát triển của văn hóa âm phủ. Nóchẳng qua chỉ là loại tiền âm phủ được làm hết sức đơn điệu, xét theo ýnghĩa “ngụ ý”, tượng tùy táng và đồ binh khí làm từ đất nung đã làm công tác khai đường mở lối từ mấy trăm năm về trước, giá trị của văn hóatiền giấy gần như ngang hàng với đồ đất nung thời bấy giờ.
Tiềngiấy có bước nhảy vọt về mặt ý nghĩa văn hóa, chủ yếu thể hiện ở haiđiểm: một là nó không chỉ được sử dụng khi mai táng người chết, mà cònđược sử dụng trong việc tế lễ tổ tiên hàng năm, hai là nó được chuyển từ hình thức chôn tiền sang hình thức đốt tiền. Hiện nay, con người khôngthể tiến hành khảo sát quá trình này, nhưng theo những bậc tiên sinhkiên quyết giữ gìn lễ tục cổ từng nói, cái sai sót trong sự biến chấtcủa tiền giấy là ở ảnh hưởng thuyết “tư minh phúc - giúp đỡ âm phủ” củacác tín đồ Phật giáo.
Tiền giấy được dùng để “giúp đỡ âm phủ”,điều này cố nhiên có quan hệ rất lớn đối với việc truyền bá Phật giáo,nhưng thực tế nó cũng rất phù hợp với Đạo giáo của Trung Quốc, như vậymới được quảng đại quần chúng và các bậc đại phu đón nhận. Mỗi đợt Tếtđến xuân về, chỉ cần trong tay còn vài đồng, mọi người đều mau chóng đimua sắm đồ lễ “xả hàng ngày hội mua sắm”, khi vui mình phải nghĩ đếnngười, thế là thế hệ con cháu hiếu thuận cũng nhớ đến các bậc tổ tiênnơi chín suối. Nhưng nơi mộ phần không phải chiếc va li tiền hay chiếctủ quần áo để tiện mở ra mở vào, vì thế, muốn chôn tiền đồng xuống bấtcứ lúc nào là việc bất khả thi. Do đó không khó để nhận ra tính ưu việtcủa tiền giấy. Trong Ghi chép ngày hội tụ, Nại Đắc Ông người thời NamTống có ghi chép một câu chuyện như sau: Vào thời Bắc Tống, triết họcgia Thiệu Ung từng nghiên cứu về nghi lễ thờ cúng tổ tiên thời Xuân Thu, ông tổng hợp tất cả lễ nghi từ cổ chí kim, vì vậy việc đốt tiền giấycũng được ông áp dụng. Trình Di cho việc đó là không hợp với Lễ, bèn tìm đến Thiệu Ung trách vấn. Ngài Khang Tiết (tức Thiệu Ung) đáp rằng: “Đóxuất phát từ ý nghĩa của đồ tùy táng, cắt bỏ mà có ích lợi, chẳng lẽkhông phải là tấm lòng hiếu thảo của con cháu sao?” Trình Di luôn giữđịa vị thấp hèn bên phía cánh tả kiểu cũ, sang ngày hôm sau ông vẫnkhông hết băn khoăn, thấy hoàng thượng bẻ càng liễu, ông bèn cho đó là“sức sống” bị tổn thương, còn như những lời xấu xa kiểu “chết đói làchuyện nhỏ, thất lễ mới là chuyện lớn” vấn đề lại di hại đến ngày nay,còn khi đó ông vẫn là gương mặt một lòng bảo vệ môn phái bị nhiều ngườighét bỏ. Nhưng Thiệu Khang Tiết cho rằng tiền giấy cũng như những loạiđồ tùy táng kia, chỉ cần có thể biểu đạt được lòng hiếu thảo của concháu thì không có thứ gì là không thể sử dụng để cúng