
ời ra nước mắt. Có một khoa thi, một thí sinh bịđám lính tìm ta cái ví giấu cẩn thận ở dưới hậu môn. Khi bị phát hiện,anh ta đến chết cũng không chịu nhận, cố tình biện hộ rằng cái ví đó làdo người ở đằng sau bỏ vào. Đám binh lính không hiểu sự tình, muốn tìmxem rốt cuộc đằng sau là người nào, cuối cùng người đằng sau cười lớn,đáp: “Phải, cứ cho là của ta để vào đó, nhưng sao nó không là để ở bêntrên, hay bên dưới mà lại nhằm vào đúng chỗ đó mà để? Hơn nữa, tại saonó lại cứ ở phần hậu môn mà mãi không chịu đi chỗ khác vậy?” Nói xonglại đắc chí cười ha ha. Lúc đó, đại đa số đám binh lính thích bỡn cợtvẫn không hiểu sự tình ra sao. Nhưng niềm vui đến với anh ta chưa đượcbao lâu thì phía sau lại tiến đến một nhóm khác, tiếp tục lục soát, làmmột lúc họ cũng khiến cái phần giữa anh ta nhô lên cao như vậy. Đúng lúc đó, Tả Tông Đường đang làm trợ lý tại đó, dùng một chân đá cho tên chỉhuy của đám binh sĩ vốn cao to hơn ông ta lăn lộn trên mặt đất (có ghichép khác cho rằng ông ta tát vào miệng tên chỉ huy đám binh sĩ một cáitát hoặc đá một cái rồi mắng thêm câu: “Đồ khốn nạn!” Có lẽ lúc đó trong thâm tâm ông Tả Tước gia kia còn mong muốn đá cho cả đám binh lính kialăn lộn khắp nơi trên đất). Nhưng có điều lạ lùng là sao ông ta lại bựcdọc và hận thù dữ dội đến vậy? Bây giờ nghĩ lại, tôi đoán rằng trongthời gian ứng thi trước kia, ông ta cũng từng chịu sự mắng mỏ, sỉ nhụcghê gớm của đám binh lính cho nên nay ngồi ở cương vị này, phải chứngkiến cảnh tượng trước mặt, ký ức bỗng chốc hiện về, mối thù xưa trỗi dậy sâu sắc đến nỗi quên hết cả địa vị và tư cách cao quý của mình. Nói tóm lại, chỉ sau khi kiểm tra đã đạt đủ tiêu chuẩn, các thí sinh mới đượcđưa đến vị trí của mình. Khi hoàng hôn buông xuống, thân thể tuy đã mệtnhoài, mặt mày ủ rũ, nhưng cũng phải cố cổ vũ mình lấy tinh thần chuẩnbị bước vào vòng thi cử. Bởi ngay tối hôm đó là phát đề thi, cũng cónghĩa là bắt đầu tính thời gian làm bài.
Thí sinh đã vào phòngthi thì phải ở đó làm một mạch đến hết ba ngày ba đêm, ăn ngủ, đại tiểutiện cũng ở đó, cộng thêm cái nóng oi bức của tiết trời tháng Tám khiếncho phòng thi ở đây bốc mùi hôi thối. Đặc biệt là ở vùng nóng ẩm nhưGiang Nam, ban ngày ruồi muỗi bay loạn xạ, tối đến muỗi tấn công ào ào,không khí giống như chốn lao tù. Nhưng tù nhân trong tù đâu cần động não suy nghĩ để làm văn thơ, vì vậy cử nhân tú tài tương lai trên thực tếrất khổ và thậm chí còn khổ hơn cả tù nhân, vì không được quyền tự do tự tại.
Từ những bức ảnh cũ của Cống viện Bắc Kinh cho phép chúngta hình dung rõ hơn về những căn phòng ẩm thấp này. Địa chỉ cũ của Cốngviện Bắc Kinh là Học viện xã hội học Trung Quốc, bên cạnh có ngõ hẻm vẫn được bảo tồn và được đặt tên là “Cống viện”. Vị trí lúc bấy giờ là gầncửa phía đông hẻo lánh và hoang vắng, nhưng nay đã trở nên sầm uất, nhộn nhịp hơn rất nhiều. Xem những bức ảnh cũ được lưu giữ lại, những cănphòng nhỏ hẹp, ẩm thắp, sân nhỏ bẩn thỉu làm người ta khó có thể tưởngtưởng nổi đây là “long môn” một bước lên trời của các nhà trí thức. Cống viện ở nơi đô thành còn như thế, các trường thi ở tỉnh, phủ, châu,huyện chỉ xếp sau mà thôi. (Ghi chép của Giới Xuyên Long khi nhìn thấyhai nghìn sáu trăm phòng thi chi đặt ở một chỗ, “không những không manglại cho người xem cảm giác tráng lệ, mà tương phản hoàn toàn, đó là sựlạnh lẽo, hoang mang đến rợn người”.) Từ hình ảnh này có thể suy đoán ra chế độ thi cử thời xưa “buồn tẻ”, “chán nản” đến mức nào. Nhà văn Nhậtnày hiểu về văn hóa Trung Quốc còn hơn cả tiền bối của Kanier. Cống viện Bắc Kinh vẫn còn chút lợi thế về điều kiện tự nhiên, đó là khí hậu mátmẻ, trừ khi gặp phải thời tiết nóng bức, oi ả của tháng Tám, cho nên maquỷ ở đây xuất hiện nhiều nhất ở cửa ngõ phía nam.
Vào thời nhàThanh, năm Đạo Quang thứ mười bảy, tức năm Đinh Dậu (1837) thi xã tạiPhúc Kiến, thời tiết nóng bức, khắc nghiệt khác thường, trong ba vòngthi có nhiều sĩ tử mắc bệnh và bị ma ám. Quyển tam ký Li biêm hiên chấtngôn[10'> của Đới Liên Phân có ghi chép lại câu chuyện thi Hương tại NamKinh vào năm Đinh Mão. Truyện kể rằng, vào đợt thi đó có một nửa số thísinh bị say nắng và có hơn bốn mươi người bị chết trong phòng thi. Người chết nhiều như vậy nên trường thi này, chuyện ma quỷ hiện về đòi mạngđương nhiên là nhiều rồi.
[10'> Nghĩa là: đặc tính chữa trị của kim li.
Cứ thi xong một môn người ta lại thấy xác của mấy thí sinh được khiêng ratừ Cống viện, cộng thêm mấy vị mắc chứng tâm thần cũng được dẫn ra theo. Tạm gác chuyện này qua một bên, phải điều tra nguyên nhân sự cố để còncó cái cớ dẹp tan mọi phẫn uất trong lòng người dân. Muốn giảm bớt những rắc rối này, họ bèn đưa ra lý do có sẵn là oan hồn báo oán hiển linhđòi mạng, lấy lý do ấy thì người dân còn biết nói gì đây? Nếu người nhàcó hỏi tiếp, giải quyết không xong nữa thì đưa chuyện đó vào “cửa viđoạt mệnh lục”, hoặc viết thành một đoạn kịch nhỏ, cũng có khi chuyểnthể thành tiểu thuyết Mãn thôn thính thuyết Thái Trung Lang[11'>. Songchuyện ma báo thù rốt cuộc cũng chỉ là cớ của quan phủ và quan trọng hơn nữa là mục đích xoa dịu sự phẫn n