
nanh dài, uống máu con nít vẫn để lại trong lòng nó một nỗi khiếp sợ
không sao gột sạch.
Đã từ lâu, hàng trăm năm trước, trên triền núi Hitachi cách xóm tiều chừng vài chục dặm có một ngôi cổ miếu thờ sơn thần.
Không ai biết đó là thần gì nhưng khẩu truyền thần rất linh thiêng, nếu
cúng bái hàng năm đầy đủ, thần sẽ phù hộ cho được mùa và không bị dịch
tễ. Cho nên dân trong vùng luân phiên nhau mang lễ vật đến dâng cúng. Lễ vật gồm có dê, bò , lợn và các loại ngũ cốc. Vào những năm ngài đặc
biệt ra oai, lễ vật còn gồm cả một thiếu nữ đồng trinh nữa.
Lễ vật thường được rước về đêm, dưới ánh đuốc chập chờn đến chân núi,
qua nhiều tàng cây rậm và những khe đá ẩm ướt trơn như đổ mỡ. Nhưng đấy
là chuyện xưa, khi dân xóm còn thưa thớt và chưa mấy người dám phiêu lưu đến gần ngôi cổ miếu. Sau này, những tiều phu đi kiếm củi phát giác sơn thần thực ra chỉ là một người hoặc con cháu của người đó, có lẽ là một
tên cướp lẩn trốn trong rừng, lợi dụng lòng mê tín của dân xóm mà ra oai tác phúc. Lễ vật vì thế thưa và ít dần, vơi theo với lòng kính trọng.
Sau cuộc tranh chấp sứ quân, số binh sĩ thua trận đào tẩu nhiều, miếu
sơn thần trở nên rộn rịp. Ban đêm người ta thấy có ánh lửa nhiều nơi
trên triền núi, tiếng người kêu khóc và những bóng đen ra vào sân miếu.
Từ đó cướp đổ xuống các xóm hẻo lánh bắt gia súc cùng với đàn bà con gái mang đi, không năm nào là không có, có khi một năm hai ba lượt.
Chúng vẽ mặt dữ tợn, mang đủ loại vũ khí, từ gậy, đinh ba đến đao kiếm.
Ai chống cự liền bị giết tức thì. Dân làng gọi chúng là sơn quỷ. Mới năm trước, bọn này từ trên núi xuống cướp phá, đốt nhà, xúc thóc, bắt bò
lợn dẫn đi lại còn giết ba thanh niên chống lại chúng. Trong ký ức của
Hạo Nhiên, biến cố ấy xác định sự có thật của bầy sơn quỷ nó từng được
nghe kể trong thời thơ ấu và càng làm tăng nỗi kinh hoàng trong lòng nó.
Nấp sau bụi rậm, Hạo Nhiên run lập cập. Nghĩ đến lời Thạch Đạt Lang dặn
trong cơn nguy biến đừng bao giờ để những xúc động, kể cả sự sợ hãi, làm chủ mình, nó cắn chặt hai hàm răng với nhau.
Ngoài kia, trên cầu gỗ lại thêm bốn năm bóng đen nữa, rồi chúng cứ tiếp
tục đến, lúc hai lúc ba, chẳng bao lâu tổng số bọn cướp đã tới non hai
chục đứa.
Hạo Nhiên cố trấn áp sự sợ hãi, giữ cho đầu óc tỉnh táo để suy nghĩ tìm
kế thoát thân, nhưng nó không tìm ra cách gì, chỉ ngồi yên không thở
mạnh và mở banh mắt nhìn ra ngoài trong bóng tối chập choạng. Bọn sơn
quỷ dường như không lưu ý gì đến người và cảnh vật xung quanh, ồn ào nhổ bọt, hỉ mũi và cãi vã. Nhờ đó Hạo Nhiên biết đêm nay chúng đến ăn hàng ở xóm tiều.
Lúc sau khi trời tối hẳn, cả bọn bỏ đi. Hạo Nhiên thấy nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng.
Bước ra khỏi bụi cây, cành lá sột soạt, đột nhiên một tiếng quát làm nó giật bắn người.
- Ai ?
Kinh hoảng, Hạo Nhiên vất túi kê xuống đất, co giò chạy thục mạng. Nó
không ngờ bọn cướp còn để lại hai thằng ở đầu cầu để canh chừng. Thấy
bóng người vụt ra ven suối, hai đứa vác giáo rượt theo. Hạo Nhiên tuy
nhanh nhẹn nhưng làm sao địch nổi những tên cướp lực lưỡng. Chẳng mấy
chốc chúng đuổi kịp thằng bé, trói nghiến lại, mặc cho nó kêu cứu vang
động cả khu đồi hoang tịch.
- Trói làm gì, thí cho nó một nhát.
Một tên nói.
Hạo Nhiên hết hồn, không kêu nữa vì biết kêu cũng vô ích, có lẽ chỉ làm cho những tên cướp thêm tức giận.
- Không. Tao có cách này hay hơn.
Nói đoạn, một tên xách bổng Hạo Nhiên lên. Thằng bé bồn chồn sợ hãi
không biết chúng định làm gì mình. Nó không đạp, không giẫy, người mềm
như sợi bún và bỗng thấy đũng quần ướt nhẹp.
Không đợi lâu, tên cướp xách nó ra bờ sông. Một tiếng “phọp”, Hạo Nhiên
bị quẳng xuống nước. Nước lạnh bắn tung tóe lên mặt. May mà chỗ ấy lòng
sông cạn, nó chỉ nằm ngửa trên bùn, xung quanh cỏ lác, ếch nhái vô số
nhảy tòm tọp.
Tên cướp lội ra, kéo Hạo Nhiên đến chân cầu, buộc nó vào đấy.
- Ở đây chờ nước lên, mày về với tổ tiên con ạ !
Sau tiếng cười hềnh hệch chấm dứt lời đe dọa, tên cướp bỏ vào bờ. Cảnh
sông cô tịch trong đêm lại trở lại cái hoang vắng cũ, giữa những tiếng
côn trùng ri rỉ và lau khô xào xạc.
Hạo Nhiên lấy lại bình tĩnh. Cơn sợ đã tan và nó có cảm giác như tự
nhiên được giải thoát, mặc dầu vẫn bị trói chặt vào chân cầu. Không hiểu tại sao, có lẽ vì tên cướp không còn đó, có lẽ vì mùi bùn nước quen
thuộc làm nó yên tâm hơn, hay có lẽ vì cả hai.
Hạo Nhiên ngẩng nhìn trời. Trời cao vòi vọi, vài đốm sao lúc ẩn lúc
hiện. Hạo Nhiên nhìn mặt sông. Mặt sông lăn tăn gợn sóng, nước vỗ bờ ì
ọp. Xung quanh nó, tạo vật thờ ơ đến lạnh lùng !
Nó thử vặn mình, rướn người. Sợi dây trói nó vào chân cầu gặp nước nở ra siết chặt vào bụng và đùi khiến nó đau đớn, nhăn mặt. Hạo Nhiên cựa
quậy những đầu ngón tay thấy dễ dàng hơn, bèn lần xuống bụng tìm mối dây buộc. Khó nhọc lắm mới cởi được nút ra thì các ngón tay cứng đơ, gần
như tê dại. Nhưng nó mừng vô tả. Gió đêm thổi mạnh mà thân thể nó nóng
ran, khích động như chưa bao giờ như thế.
Hạo Nhiên vặn mình cho dây trói tuột đi rồi nương theo chân cầu trầm
mình xuống. Nó sờ soạng,