cứ phải ở phòng đọc sách, tiểu thư gọi nó phải vào. Chỉ có giờ ăn cơm thì nó được tự do thôi.
Sáng hôm ấy, nó vừa đốt trầm hương xong thiếu nữ bảo nó:
– Lát nữa đây thầy của ta đến, ngươi cũng phải chào kính cho lễ độ.
Lát sau, một người trang phục theo lối nho sinh, tuổi khoảng tứ tuần đến. Thiếu nữ cung kính chấp tay:
– Con là Phương Lan cung kính vấn an thầy.
Nho sinh vẫy tay:
– Không dám, tôi cũng kính cẩn vấn an tiểu thư.
Đào Kỳ liếc nhìn nho sinh: Mặt mũi tươi hồng, tiếng nói lớn mà khoan
thai, dáng điệu đường bệ. Nó cũng chấp tay hành lễ. Nho sinh hỏi Phương
Lan:
– Thư đồng mới đấy à?
Phương Lan nói:
– Thưa thầy, vâng. Chú bé này là con nhà danh gia, vì bị tội nên sư huynh con cứu ra. Cha con cho chú ẩn thân ở đây.
Nghe giọng nói lơ lớ không rõ, Đào Kỳ mới biết nho sinh không phải người Việt, mà là ngưởi Hán. Ông nói:
– Phạm tội à? Nếu phạm thường tội như ăn cắp, ăn trộm thì cần phải dạy
dỗ lại, trẻ con đã biết gì? Chú là con nhà danh gia thì chắc không phải
ăn trộm ăn cắp đâu. Hắn lại học võ, rồi đi đánh bọn quân Hán hung dữ chứ gì? Hừ... ta còn lạ gì bọn này nữa. Nếu chú phạm tội đó thì không phải
là tội, mà là thiếu niên anh hùng. Ta là người Hán, nhưng ta chúa ghét
bọn Hán tàn bạo. Ta là nho sinh, đi truyền đạo của Phu-tử, ta coi người
Việt, người Hán cũng như nhau. Nhưng người Việt đáng thương hơn.
Đào Kỳ thấy thiện cảm với nho sinh. Nó sang phòng bên ngồi. Bên này, nho sinh đang giảng Bắc sử cho Phương Lan. Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, từ hồi Lĩnh Nam cho đến những năm 1925-1926, học sinh thường học hai
thứ sử, một là Bắc sử tức sử Trung Hoa, hai là Nam sử tức sử Việt Nam.
Vào thời kỳ Lĩnh-nam, học sinh chỉ học Bắc-sử, còn một số ít con nhà
danh gia yêu nước mới học Nam-sử. Đào Kỳ là con một Lạc-hầu đất
Cửu-chân, chí lúc nào cũng mong phản Hán phục Việt, nên nó được học Nam
sử rất kỹ. Nó ngồi yên nghe nho sinh giảng về thời đại Hán-Sở tranh
hùng:
“... Xuất thân của Hán Cao-tổ là người thất học, hạnh kiểm, đạo đức cũng không có. Tài không, đức không nên Cao-tổ rất nể sợ những người dòng
dõi thế gia. Lưu-hầu Trương Lương, bảy đời làm tướng, được Cao-tổ nể
nhất, kế gì cũng tin, nói gì cũng nghe.
Khi được nước rồi thì Cao-tổ không chịu phong tước cho tướng sĩ. Chiều
chiều họ hay tụ nhau ở bãi sông đùa nghịch. Cao tổ đứng trên lầu thấy
vậy hỏi Trương Lương:
– Các tướng tụ hội nhau làm gì vậy?
Trương Lương dọa:
– Để làm phản.
Cao tổ thất kinh hỏi:
– Tại sao họ phản ta?
Trương Lương đáp:
– Bệ hạ cùng họ vào sinh ra từ, trăm cay nghìn đắng mới có ngày nay. Thế mà khi được nước rồi, chỉ mất một tờ giấy, cho mỗi người một chức,
tước, bệ hạ cũng không cho. Ngược lại bệ hạ rình họ có lỗi gì thì mang
ra giết. Họ không phản sao được?
Cao tổ hoảng kinh hỏi:
– Thế thì ta phải làm gì?
Đáp:
– Bệ hạ ghét ai nhất?
– Bình sinh ta ghét nhất Ung Sỉ. Khi hắn còn theo Hạng Võ, đã mang quân
vây bắt gia quyến ta. Nay tuy về hàng mà ta còn chưa quên.
– Vậy thì ngày mai bệ hạ gọi Ung Sỉ vào phong tước cho y. Tự nhiên những người khác tỉnh ngộ rằng bệ hạ chưa phong chức tước là còn chờ đấy
thôi, chứ người bệ hạ ghét nhất còn được phong nữa là... Sau đó bệ hạ
phong cho mỗi người một chức, cho họ đi các phương trấn nhậm thì lo gì.
Vì vậy con thấy đấy, phàm khi người nghèo khó thì người ta dễ thân với
nhau. Khi có mùi phú quý rồi, thì người ta xa nhau. Cao tổ là người thất học, vô lại, khi được ngôi vua thì quên rằng ngôi vua đó là do những
người theo mình mới thành, mất một tờ giấy, phong chức tước cho người ta cũng không. Ba người giúp Cao tổ thành đại nghiệp là: Hàn Tín về quân
sự, Tiêu Hà về hành chánh, Trương Lương về chính trị. Trương Lương khôn
ngoan, biết sự đã thành rồi, khó sống yên, nên bỏ đi tu mà thoát nạn.
Tiêu Hà cầm quyền hành chánh không đáng lo. Cao tổ bắt bỏ tù. Hàn Tín
cầm quyền quân sự, Cao tổ lo lắng, đem cả nhà giết đi. Cho nên phê bình
về Hán Cao tổ, cổ nhân đã nói “Trương Lương dĩ khứ, Tiêu Hà dĩ ngục, Hàn Tín dĩ trảm, Hán đắc thiên hạ để do Tín vi công,” nghĩa là Trương Lương bỏ đi tu, Tiêu Hà bị tù, Hàn Tín bị giết. Nhà Hán được thiên hạ đều do
công của Hàn Tín.”
Đào Kỳ đã đọc sử về giai đoạn này, nhưng nó không được thầy đồ phẩm
bình. Nay nghe nho sinh này phê bình đanh thép, nó đâm ra khâm phục. Nó
nghĩ:
– Dạy sử như thế thì hãy nên dạy. Chứ dạy sử chỉ là kể truyện xưa thì kể làm gì. Nho sinh này là người Hán, mà không hề thiên vị các vua nhà
Hán.
Sau khi giảng sử, thì nho sinh cho Phương Lan nghỉ một lúc rồi lại giảng về kinh Dịch. Hồi ở Cửu-chân, Đào Kỳ chuẩn bị học kinh Dịch thì xảy ra
biến cố, nên nó chưa được biết gì về khoa học tối cao này. Nho sinh
giảng về học thuyết Âm Dương:
“... Âm Dương là kỷ cương của trời đất. Truyền thuyết nói rằng học
thuyết Âm Dương là do vua Phục Hy tìm ra, sai lắm. Âm Dương là một học
thuyết về sự tuần hoàn của vũ trụ: Trời là Dương, đất là Âm. Nắng là
Dương, mưa là Âm. Khí là Dương, huyết là Âm. Học thuyết Âm, Dương bao
trùm tất cả các môn học như: Ăn uống, địa lý, lịch sử, võ học.
Nhưn