lên giường.
Đức Hiệp vẫy tay cho nó đi theo, chỉ cho nó chỗ ăn cơm, phát cho nó hai bộ quần áo màu xanh, bảo nó:
– Nô bộc ở đây đều mặc quần áo màu xanh cả. Chú phải thay quần áo đi.
Lão chỉ về phía sau, có bốn căn nhà nối nhau theo hình vuông, ngoài có
hàng rào tre kiên cố, cửa vào tráng đinh canh phòng nghiêm ngặt dặn nó:
– Kia là cấm địa. Nếu chú tới đó, thì đệ tử của lão gia sẽ đánh chú què chân. Chú phải nhớ đừng quên mà nguy tai.
Đào Kỳ nhủ thầm:
– Cái gì mà là cấm địa. Đã vậy ta phải dọ thám xem cho biết mới được.
Kể từ hôm đó, Đào Kỳ chuyên tưới hoa, cắt xén cây cảnh trong vườn. Ngày
ngày theo bọn nô tỳ ăn uống. Lúc rỗi nó dạo khắp trang. Nó khám phá ra
trang lớn gấp mấy Đào trang nhà nó, tráng đinh ít ra cũng vài ngàn. Nhân khẩu có tới hơn vạn. Dân chúng nhà nào cũng giàu có, nuôi trâu, nuôi
lợn, gà rất nhiều. Nó đến góc phía Đông thì thấy một dãy nhà, trong dãy
có bọn thợ rèn đang rèn cuốc, dao, cày, búa.
Ban ngày làm việc, tối đến, nó đóng cửa lại luyện võ. Thỉnh thoảng nó ra ngoài trang chơi, hỏi thăm đường đi Cổ-loa. Người ta chỉ cho nó biết
rằng Cổ-loa cách đây khoảng một ngày đường mà thôi. Nó định hôm nào xin
phép lão Đức Hiệp đi Cổ-loa để tìm tin tức cha mẹ.
Một hôm Đức Hiệp bảo nó:
– Dưới ao sen đàng trước có mấy cây bèo, vậy chú lội xuống vớt lên, vì để lâu bèo sinh ra nhiều, thì khó vớt.
Nó nhảy xuống ao vớt bèo. Nhân tiện bơi lội trong ao chơi đùa. Nước ao
khá trong, nó lặn xuống dưới, đuổi bắt cá. Hồi ở Cửu-chân, nó nổi tiếng
là con rái cá. Nó thường lặn dưới nước bắt cá dễ dàng như không. So với
cá biển, cá ở ao Thái-hà trang dễ bắt hơn nhiều. Nó bắt được con cá
chép, rồi lại thả ra. Nó thoáng thấy một con cá trắm lớn bơi qua trước
mặt nó, nó vội đuổi theo. Con cá trắm chui ngay vào cái hang lớn. Nó
cũng chui theo. Nó mải đuổi theo con cá trắm, một lúc thì thấy hang hẹp
chỉ còn một người qua lọt. Nó dơ tay xem hang có cao không, thì thấy
khoảng trống không. Nó đứng dậy mới hay cửa hang nhỏ, chìm dưới nước.
Còn vào trong là một đường hầm, nửa dưới nước, nửa trên cạn. Nó tiếp tục đi nữa thấy ánh sáng lọt vào, thì ra hang cá là một con sông ngầm thông với bên ngoài. Tới chỗ có ánh sáng, bị vướng bảy tám cái cột gỗ đóng
như chấn song, người chui qua không lọt. Nó ghé mắt nhìn qua bên kia, là một cái ao nhỏ. Trên bờ ao có căn nhà. Nó nhận ra được đó là căn nhà
Đức Hiệp bảo với nó là cấm địa.
Nó nghĩ thầm:
– Cấm địa gì đây? Tại sao lại có đường thông với ao? Ta phải vào dọ thám xem mới được.
Quyết định rồi, nó lội trở ra, lên bờ mặc quần áo ăn cơm. Chờ trời tối
cho mọi người đi ngủ, nó lấy kiếm dắt vào lưng rồi ra bờ ao, cởi quần áo dấu vào bụi hoa, lặn xuống ao, lần theo đường cũ mà đi. Tới chỗ chấn
song, nó dùng kiếm vận sức vào tay cắt một thanh nhỏ. Nó khôn ngoan cắt
khúc chìm dưới nước, để không bị khám phá ra. Nó nhỏ người, nên sau khi
cắt một cột, nó chui tọt vào trong được.
Ra khỏi hầm là một cái ao nhỏ, nó đứng lên đi vào bờ. Đảo mắt nhìn nó
thấy bốn gian nhà làm dính với nhau thành hình vuông. Mỗi gian dài
khoảng mười trượng. Những gian nhà này chia thành nhiều phòng nhỏ. Mỗi
phòng đều có một cửa sổ rất nhỏ, đút lọt một nắm tay, và một cái cửa
lớn. Cửa được khoá bằng những ổ khóa to. Nó đi một vòng hết bốn dãy nhà, mỗi dãy có một lối thông cắt ngang ra phía trước, thông với cái cổng.
Nó ngồi im suy nghĩ:
– Bốn dãy nhà, đều có phòng nhỏ khoá kín. Mỗi dãy có lối thông với cổng. Ngoài cổng ban ngày có người gác, ban đêm thì lại khoá chặt. Thế những
gian nhà này chứa gì đây?
Có tiếng ho từ trong nhà vọng ra, nó giật nảy người lên:
– Tại sao trong phòng có người ho? Vậy những người này là ai? Chắc chắn
họ bị giam ở đây rồi. Thì ra đây là một nhà tù. Lục-trúc tiên sinh giam
ai ở đây?
Nó đến trước phòng có tiếng ho, sờ soạng định tìm cách mở cửa, nhưng cửa gỗ rất chắc chắn, khoá bằng cái khoá lớn, không có cách nào vào cả. Nó
suy nghĩ:
– Ta hãy tạm trở về, lần sau tìm cách mang đá lửa, gỗ bồi vào đây để đốt lên thì may ra tìm được manh mối vào nhà tù.
Nó theo lối cũ trở về, mặc quần áo vào phòng ngủ. Nó tự nhủ rằng phải
tìm cách đột nhập vào phòng Đức Hiệp, để ăn cắp chìa khoá nhà tù mới
được. Từ đó ngày ngày nó rình Đức Hiệp, thấy mỗi ngày y cùng gia đinh
khiêng mấy thùng cơm lại khu nhà tù. Nó đoán rằng lão cho tù ăn. Nó chờ
cho đến khi lão trở về, tay lão cầm hai chùm chìa khoá. Nó đoán rằng đó
là chìa khoá mở nhà tù. Nó vờ đi sau lão, tới phòng cất chìa khoá nó
hỏi:
– Đức Hiệp lão gia, cháu muốn lão gia giúp cháu một việc được không?
Đức Hiệp gật đầu:
– Được, việc gì chú nói tôi nghe xem có giúp được chú không đã.
Lão vào phòng, nó đi theo. Lão treo chìa khoá lên tường. Nó liếc thấy
trên tường có rất nhiều chìa khoá, nó ghi nhớ hai cái chìa khoá lão mới
treo lên, rồi nói:
– Chuyện của cháu nhờ thì dễ quá. Cháu có người thân ở Cổ-loa. Vậy đến
ngày rằm này lão gia cho cháu nghỉ ba ngày đi thăm họ hàng.
Đức Hiệp gật đầu:
– Chú đến đây đã mấy tháng, làm việc chăm chỉ, vườn hoa tươi tốt, hoa nở rất đẹp. Ta thưởng cho chú