
ắt chú nhắm lại đi. Đừng để bà con thấy thêm đau lòng...
Bàn tay tía nuôi tôi từ
từ đặt lên đôi mắt dại đờ.
Chung quanh im phăng phắc. Tía nuôi tôi để
yên bàn tay như vậy khá lâu, và khi ông từ từ vuốt mí mắt xuống thì đôi mắt của
người chết vừa rồi mở trừng trừng quả nhiên đã khép lại.
Mọi người ồ lên một tiếng và bấy giờ tiếng
thì thào mới bắt đầu nổi lên. Tôi ngạc nhiên quá đỗi. Không hiểu sao những lời
khấn vừa rồi lại có thể "ứng nghiệm”, lạ lùng như vậy được.
Lão Ba Ngù đưa tay quệt một giọt nước mắt,
cúi xuống đắp tàu lá chuối lên mặt cái xác. Theo lời những người chung quanh
thì lão là người độc nhất chứng kiến cái chết anh dũng của Võ Tòng. Sau khi
chiếc ca nô địch chạy qua, còn chưa khuất lái, lão đã lặn ngay xuống sông vớt
xác Võ Tòng lên, và mặc cho máu me còn đầm đìa rỏ xuống uớt cả người, lão cứ
thế vác đi một quãng mới gặp xuồng gọi chở về đây. Còn như sự thể đã diễn ra
như thế nào thì không nghe ai nói. Dường như mọi người đều biết cả rồi. Chỉ còn
tía con chúng tôi mới đến là còn chưa rõ.
Người đàn ông chèo chiếc tam bản trên sông
lúc nãy đã quay về, chở theo một cái "hòm". Trên tam bản còn thấy có
ông chủ nhiệm thôn bộ Việt Minh vai đeo khẩu súng hai nòng, và một anh thanh
niên mặc quần đùi, cởi trần, dáng chừng là người theo phụ giúp việc khiêng vác.
Huyệt mả đã đào xong gần ngay đất. Cuộc nhập
quan cũng hết sức giản đơn và nhanh chóng. Người ta đặt xác vào quan tài, và
mọi người chung quanh đứng cúi đầu vĩnh biệt người anh hùng của xã lần cuối,
trước khi đóng nắp áo quan. Không một tiếng khóc. Không một bài điếu văn nhỏ,
hoặc một người nào đó đứng ra nói mấy lời về cái chết anh dũng cua người còn
nằm đây. Đó là điều làm cho tôi xốn xang, bứt rứt không chịu nổi. Trên những
gương mặt sạm đen dãi dầu nắng gió của họ, tôi không tìm ra một nét nào là biểu
hiện của bi thương. Cho dù là dáng vẻ bề ngoài, một sự bi lụy thông thường bao
giờ mà chả cần có ở một đám đưa ma? Trên những gương mặt bất động dường như
chạm bằng đá kia, chỉ có những cặp mắt là chói ngời, khiến tôi không dám nhìn
thẳng vào mắt họ.
Khi quan tài đặt xuống, ông chủ nhiệm thôn bộ
Việt Minh là người ném hòn đất xuống đầu tiên, rồi bước ra ngoài nhường chỗ cho
người khác. Mỗi người cầm một hòn đất bước đến bỏ vào huyệt mả. Trong lúc ai
nấy đang loay hoay lo lấp huyệt, bỗng nghe đoành... đoàng... hai tiếng nổ bên
tai. Ông chủ nhiệm thôn bộ Việt Minh đã bất thần bắn lên hai phát súng chào
không dự định trước. Một tay ông cầm khẩu ca-líp đui hai nòng bốc khói xanh,
một tay giơ lên trước huyệt, bộ ria đen nhánh rung rung:
- Chú Võ Tòng! Đồng bào sẽ trả thù cho chú.
Tất cả những cánh tay nhớp nháp bùn đất của
người đứng chung quanh huyệt mả cùng giơ tay thẳng lên trời. Họ gào lên như
tiếng súng vừa nổ bất thình lình: "Trả thù! ". Hồi âm từ trong rừng
xanh vọng lại hai tiếng "Trả thù?" âm vang trên mặt sông chiều đỏ rực
một màu máu.
Bầu không khí nhiễm đặc mùi thơm nồng của
khói thuốc súng như rung lên, và sự im lặng lại trở về xâm chiếm đầu óc tôi,
một chú học sinh bé nhỏ sống ở thành phố, chưa từng bao giờ trông thấy một cuộc
tống táng tràn đầy phẫn nộ như vậy.
Những người còn nấn ná sau cùng bên ngôi mộ
mới đắp xong là lão Ba Ngù, tía nuôi tôi và tôi. Khi thấy lão nhận lời mời
"về ở chơi vài bữa”, của tía nuôi tôi mà không một lời từ chối, tôi lập
tức thấy cái tính không khách sáo của lão thật là đáng yêu biết chừng nào.
Vào khoảng hơn bẩy giờ tối hôm ấy thì chúng
tôi về đến nhà. Tôi không chú ý đến sự mừng rỡ của má nuôi tôi và thằng Cò. Cả
những câu hỏi đầy âu yếm và lo lắng của bà, tôi cũng chỉ nghe có một bên tai và
trả lời qua loa cho xong về trận cháy rừng. Tôi đang nóng lòng sốt ruột, muốn
nghe lão Ba Ngù kể lại cái chết của "người đàn ông” cô độc giữa rừng mà
lão là người độc nhất được chứng kiến. Thế mà lão lại ngồi uống trà nhâm nhi
với tía nuôi tôi và nói những chuyện con cà con kê gì ở đâu đâu. Sự hy sinh anh
dũng của chú Võ Tòng có làm cho má nuôi tôi buồn thương giây lát, nhưng dầu sao
cái việc chồng con vừa thoát chết trong trận cháy rừng về tới nhà, và sự có mặt
của một ông khách vốn là chỗ có đôi chút quen biết trước với chồng mình - mà
tất cả đều chưa ăn uống gì - khiến bà bấn lên trong việc lo cơm nước đãi khách
một cách vui vẻ.
Nghe má nuôi tôi bảo thằng Cod bơi xuồng sang
xóm bên mua thêm rượu, và tiếng vịt bị cắt tiết kêu cạp... cạp sau bếp, tôi
càng yên trí ngồi hóng chuyện bên tía nuôi tôi. Tôi giành cho mình cái quyền
được nghỉ ngơi sau mấy ngày vất cả, và tự thấy mình như một người con trai lớn
có thể đường hoàng cùng ông bố ngồi tiếp chuyện với khách vậy.
- Chúng nó bắt được tôi trong lúc tôi có hơi
quá chén, anh Hai ạ - lão Ba Ngù e hèm mấy tiếng, cười cười nhìn bố nuôi tôi.
Có bao giờ lão nhận là lão say đâu - chẳng là tôi đưa vợ con tản đến ở nhờ nhà
một người bà con ở Kim Quy Đá Bạc, vừa quá giang xuồng về đến xã này thì gặp
giặc đổ bộ vào. Cái thằng chủ xuồng chết tiệt, nó mới