
ỡng người thật trong trang phục thật thế này, đôi mắt tôi như
bị thôi miên, cứ dán chặt vào, quên cả phép lịch sự. Không thể lôi công tác
nghiên cứu ra để biện bạch cho hành vi của mình, tôi chỉ còn cách duy nhất là
cười khì khì giả ngây ngô.
Chúng
tôi dừng chân nghỉ ngơi tại một rừng dương nhỏ. Những người hầu cận nhanh chóng
dựng lều và nhặt cành dương khô nhóm lửa nấu mì. Sau khi lót dạ bằng một bát mì
nóng và những chiếc bánh Tây vực, tôi bắt đầu thèm ngủ. Hai mẹ con hòa thượng
dùng bữa xong liền vào trong lều tụng kinh, họ đặt trên gối một cuốn kinh thư.
Lòng hiếu kỳ kéo tôi lại gần họ, kết quả là tôi luôn luôn bị bất ngờ.
Kinh
thư được viết trên lụa, chữ viết rất lạ, hình như là những kí tự, bao gồm rất
nhiều đường nét giống hình số 8 được viết thẳng và viết ngang. Tuy đọc không
hiểu, nhưng tôi không hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ này, loại văn tự này có lẽ
là văn tự Tochari đã thất truyền từ rất lâu. Đây là ngôn ngữ Ấn Âu nguyên thủy
cổ xưa nhất được biết đến cho tới nay, ra đời dựa trên sự phát triển những kí
tự của chữ viết Brahmi, Ấn Độ và cho đến nay vẫn chưa được giải mã triệt để.
Tôi run
rẩy bò đến gần và nhấc cuốn kinh thư phủ trên đầu gối tiểu hòa thượng, nghẹn
ngào thốt lên:
- Trời
ơi, đây là văn tự Tochari, là văn tự Tochari đấy!
Nếu có
thể mang cuốn kinh thư này trở về, nó sẽ có giá trị nghiên cứu lớn lao biết
chừng nào!
Ni cô
xinh đẹp hơi chau mày! Tiểu hòa thượng sau một thoáng giật mình, ngạc nhiên
nhìn tôi:
- Cô
biết văn tự này? Đây là chữ Khâu Từ, không phải Tochari[2'>.
A, đúng
rồi, Tochari là cách đặt tên của người Đức, những người Khâu Từ này chắc chắn
không biết Tochari là tên gọi ngôn ngữ của họ. Nhưng con người ở thế kỉ XXI đã
quen với tên gọi đó. Tôi cười ngượng ngùng nhưng mắt vẫn dán chặt vào những
hình số 8 xiêu vẹo kia, tự nhận thấy nỗi hưng phấn được tận mắt chiêm ngưỡng
những dòng văn tự Tochari sống động đang dâng cao không bút nào tả xiết.
Được
nghe lại và thấy lại một ngôn ngữ đã thất truyền đối với một người nghiên cứu
lịch sử như tôi, có ý nghĩa vô cùng lớn lao, không thể đo đếm. Để có thể giải
mã những văn tự đã chết, biết bao nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã phải dành cả cuộc
đời để tìm kiếm dấu tích trên những di chỉ, di cảo còn sót lại. Thế kỷ XVIII,
Champollion lần đầu tiên giải mã được chữ tượng hình Ai Cập, đã vén được bức
màn bí ẩn phủ trên mình lịch sử suốt mấy nghìn năm và ông được lưu danh thiên
cổ. Hiện nay, các nhà khoa học vẫn chưa có cách nào giải mã hoàn toàn văn tự
Tochari, nếu như tôi có thể đọc hiểu thứ ngôn ngữ này…
Tôi nắm
chặt tay áo thùng thình của tiểu hòa thượng:
- Làm
ơn, dạy tôi tiếng Tochari, à không, tiếng Khâu Từ!
Hòa
thượng sững sờ chốc lát, rồi quay ra hỏi:
- Cô
biết chữ Hán chứ?
- Tất
nhiên rồi.
Đến
phiên tôi ngạc nhiên.
Hòa
thượng quay sang chuyện trò một hồi lâu với ni cô. Ni cô ngước nhìn tôi một lát
rồi nói mấy câu với con trai. Hai mẹ con họ trao đổi khá lâu khiến tôi không
khỏi hụt hẫng. Đang lo sợ bị từ chối, thì tiểu hòa thượng quay lại nhìn tôi,
đôi mắt màu nâu nhạt ánh lên nét tinh nghịch:
- Tôi
sẽ dạy cô, nhưng đổi lại cô phải dạy tôi tiếng Hán.
Tôi thở
phào, thì ra cậu ta muốn có đi có lại, tốt thôi!
- Được
chứ.
Ngập
ngừng giây lát, tôi bổ sung thêm:
- Tuy
tôi không uyên thâm kinh thư Phật pháp, nhưng tôi có thể dạy cậu chữ Hán, giảng
giải “Luận ngữ”, “Kinh thi”, “Tả truyện”, “Chiến quốc sách”.
Tôi
nghiên cứu lịch sử, không phải Phật học. Tôi có tìm hiểu đôi chút về lịch sử
Phật giáo, nhưng đi sâu vào những nội dung cụ thể của Phật giáo tam tạng như:
kinh tạng, luật tạng, luận tạng thì tôi hoàn toàn không biết gì. Tôi thực sự
tiếc nuối, sớm biết sẽ vượt thời gian đến nơi đây, đồng hành cùng mấy vị hòa
thượng ni cô thế này, tôi đã chăm chỉ nghiên cứu về Phật học rồi.
- Không
hiểu kinh Phật cũng không sao, cô dạy tôi những kinh văn kia là đủ.
Tiểu
hòa thượng có vẻ rất vui mừng, vì tôi thấy nụ cười ấm áp lẩn khuất sau hàng
lông mày dài tuyệt đẹp.
Tôi
bỗng nghĩ, kinh Phật lưu truyền ở Trung Nguyên đều được dịch từ tiếng Phạn và
một số ngôn ngữ thuộc Tây vực. Hòa thượng là người Khâu Từ, đâu cần phải học
kinh Phật tiếng Hán, hòa thượng người Hán học kinh Phật từ tiểu hòa thượng này
mới đúng chứ!
Hôm đó,
tôi còn phát hiện thêm điều thú vị này nữa: sau bữa trưa, hai mẹ con hòa thượng
không ăn thêm bất cứ thứ gì. Người cổ đại chỉ ăn hai bữa một ngày, giới tăng ni
càng nghiêm khắc hơn.
Hỏi
tiểu hòa thượng thì được trả lời bằng tiếng Hán bập bõm rằng, giới luật quy
định, hòa thượng có thể dùng bữa trong khoảng thời gian từ sáng đến trưa, nhưng
bắt đầu từ buổi chiều cho đến buổi sáng ngày tiếp theo, hòa thượng không được
phép ăn uống bất cứ thứ gì.
Giới
luật này được đặt ra xuất phát từ câu chuyện: một đệ tử của Phật Thích Ca đi
khất thực vào buổi chiều muộn, lúc ấy trời đã nhá nhem tối, một người phụ nữ
mang thai lầm tưởng vị hòa thượng đó là ma, đã quá sợ hãi dẫn đến đẻ non. Từ
đó, Phật Thích Ca đã đặt ra giới luật này. Nhưng những người ốm