
đau bệnh tật
hoặc những người lao động vất vả, thì vẫn được phép ăn bữa tối, để duy trì sức
khỏe.
Tôi gật
gật đầu. Vào thời đại của Phật Thích Ca, các hòa thượng dành phần lớn thời gian
cho việc ngồi thiền, nên năng lượng tiêu hao không nhiều, không ăn bữa tối cũng
không sao. Nhưng khi Phật giáo được truyền vào đất Hán, các nhà sư Trung Nguyên
vẫn ăn tối như người thường. Bởi vì, ở Trung Nguyên, nhà sư cũng phải làm
ruộng, nên đã chủ động thay đổi giới luật. Điều đó chứng minh tính linh hoạt
của tín ngưỡng Phật giáo. Có lẽ vì thế, trải qua mấy nghìn năm, Phật giáo vẫn
phát triển mạnh mẽ.
Quan
sát cách họ ăn cơm và uống nước đều nhận thấy nhiều điều thú vị. Đám thị nữ
dùng một vật dụng gần giống với túi lưới, lọc nước rồi mới mang đến cho hai mẹ
con hòa thượng uống[3'>. Lúc đầu tôi cứ đinh ninh, hẳn là họ
e ngại nước trên sa mạc chứa nhiều tạp chất, nặng mùi phèn nên lọc qua một lần
rồi mới uống. Nhưng đến khi thấy nước dành chomình
không cần lọc, liền cảm thấy kì lạ.
Tiểu
hòa thượng lại ra sức giải thích cho tôi hiểu: các nhà sư trước khi uống phải
lọc nước để tránh nuốt vào bụng những sinh vật có trong nước, nếu không, sẽ vô
tình mắc tội sát sinh. Bởi vậy, giới luật của nhà Phật quy định, nhà sư phải
luôn mang theo bên mình túi lọc nước, nếu không, họ không được phép rời khỏi
nơi ở quá hai mươi dặm.
Lời
giải thích của tiểu hòa thượng khiến tôi lập tức nhớ tới câu chuyện Trần Huyền
Trang khi xưa một mình đi giữa sa mạc mênh mông không bóng người, mặc dù sắp lả
đi vì khát, nhà sư vẫn đổ hết nước trong túi da của mình đi. Vì Huyền Trang
kiên trì tuân thủ giới luật, không uống nước khi chưa được lọc sạch.
Buổi
tối, tôi ngồi bên đống lửa ngoài lán trại, chăm chú ghi chép lại tất cả những
điều mắt thấy tai nghe mấy ngày qua. Trên cao, ngàn vạn ngôi sao lấp lánh giữa
nền trời xanh thẫm.
Còn nhớ
những ngày tháng du lịch Tân Cương ở thế kỷ XXI, tôi cũng từng ngước lên bầu trời
trong vắt giữa đêm khuya thanh vắng và tự hỏi, phải chăng người xưa cũng từng
ngắm nhìn bầu trời đêm này như tôi? Và, bầu trời sao tôi nhìn thấy đêm nay,
phải chăng cũng là bầu trời sao thuần khiết mà một nghìn năm sau tôi lại được
nhìn ngắm? Tôi cứ đắm chìm trong mối suy từ này không sao dứt ra khỏi. Tôi của
hôm nay và tôi của một nghìn năm về sau đang cùng hướng lên bầu trời thăm thẳm
kia ư? Vậy rốt cuộc, tôi đã xuất hiện và tồn tại như thế nào?
Ngày
thứ ba, chúng tôi dựng trại ven một dòng sông đang mùa nước cạn. Mẹ con tiểu
hòa thượng đã bắt đầu tụng kinh, họ không ăn tối, tôi dùng bữa cùng với những
người khác, vẫn là bánh Tây vực và mì nóng. Tôi ở chung với những thị nữ khác,
hòa thượng “quyền quý” được dành riêng một lán trại với chế độ chăm sóc đặc
biệt. Vì vậy, lớp học, tất nhiên là được sắp xếp ở chỗ của hòa thượng.
Vừa
bước vào trong lán, tôi bỗng sững lại, Jiba đang cạo đầu cho con trai, những
sợi tóc màu hung rơi lả tả trên tấm vải trắng quấn quanh cổ hòa thượng. Hòa
thượng mỉm cười với tôi và ra hiệu cho tôi ngồi chờ một lát.
Tôi bắt
đầu quan sát Kumalajiba trong thời gian chờ đợi. Vầng trán của cậu không bị nén
dẹt như người mẹ. Và thật mừng là các nhà sư sống trong thời đại và khu vực này
không có tục lệ đốt hương trên đỉnh đầu, bằng không, bên cạnh đau đớn về thể
xác, những vết sẹo đó sẽ phá hoại dung mạo gần như hoàn mỹ của tiểu hòa thượng.
Nghĩ
đến những vết sẹo đốt hương, bất giác tôi mỉm cười, đây vốn là “đặc sản” của
văn hóa Phật giáo Trung Nguyên.
Thực ra
lúc đầu, cũng giống như ở các quốc gia khác, hòa thượng Trung Quốc không đốt
hương trên đỉnh đầu. Được biết tục lệ này vốn do Lương Vũ Đế – vị vua cuồng tín
đạo Phật thời Nam Bắc triều khởi xướng. Vua Lương từng ba lần quyết tâm xuất
gia, nhưng cả ba lần đều “bị” các đại thần “chuộc” về bằng rất nhiều ngân
lượng.
Vì muốn
nhanh chóng mở rộng diện ảnh hưởng của đạo Phật và tăng số lượng tăng ni Phật
tử, nhà vua đã hạ chỉ miễn tội cho tất cả các tử tù, buộc họ xuất gia làm hòa
thượng. Nhưng vì lo ngại đám tử tù bỏ trốn, tiếp tục phạm tội, ngài lệnh “kiểm
hình” (khắc chữ trên mặt) Lương Vũ Đế còn ban chỉ dụ đốt hương trên đỉnh đầu
các tử tù để dễ dàng nhận dạng trong quá trình truy bắt.
Cá nhân
tôi cho rằng, tục lệ đốt hương trên đầu hòa thượng ở Trung Quốc xuất phát từ
mục đích của nhà cầm quyền. Các nhà sư không tham gia sản xuất, không nộp thuế,
không sinh con cái, nếu số lượng tăng ni quá nhiều sẽ ảnh hưởng xấu đến năng
lực sản xuất. Thêm vào đó, giới luật “không sinh con” của Phật giáo mâu thuẫn
sâu sắc với luân thường đạo lý thời xưa “trong ba tội bất hiếu, không có con
nối dõi là tội nặng nhất”. Những thảm kịch “hủy diệt đạo Phật” diễn ra trong
lịch sử đều có nguyên nhân sâu xa từ yêu cầu duy trì phát triển kinh tế và bảo
vệ những luân lí đạo đức vốn có từ lâu đời. Tuy nhiên, sự tồn tại của tôn giáo
là không thể thiếu, tôn giáo giúp giai cấp thống trị giữ cho xã hội được ổn
định. Vì vậy, các nhà sư buộc phải có thẻ chứng nhận và nhà nước khống chế chặt
chẽ số lượng tăng ni.