
Dấu hiệu nhận biết bên ngoài của nhà sư chính là vết chấm
cháy trên đỉnh đầu. Những kẻ cạo trọc đầu giả mạo nhà sư sẽ dễ dàng bị phát
hiện. Rất mừng là sau giải phóng, tập tục này đã được xóa bỏ, nhưng tôi nghe
nói, một số chùa vẫn duy trì nghi lễ đốt hương này…
- Ngải
Tình!
Tôi
giật mình ngẩng lên, tiểu hòa thượng mặt mày hớn hở. Vừa cạo đầu xong, trông
cậu ta có vẻ sảng khoái và phấn chấn. Tôi ngó nghiêng, Jiba đã ra ngoài lúc nào
mà tôi không hay. Vội theo sau tiểu hòa thượng đến bên chiếc bàn dài, tôi bắt
đầu buổi học đầu tiên của mình.
Tiểu
hòa thượng dạy tôi tiếng Tochari trước. Mặc dù hết sức tận tâm và kiên trì,
nhưng vì trình độ tiếng Hán có hạn, chữ Tochari lại khó nhớ, tôi cảm thấy khổ
sở hơn cả ngày xưa học tiếng Đức, tôi gắng sức tập trung, mồ hôi lăn đầy trên
trán. Một tiếng sau thì tôi mệt đến mức phủ phục xuống bàn học và yêu cầu được
nghỉ giải lao. Giờ học tiếng Tochari của tôi đã kết thúc trong rã rời như vậy.
Nghỉ
ngơi một lúc thì đến lượt tôi dạy tiểu hòa thượng tiếng Hán. Tôi từng tham gia
giảng dạy xóa mù chữ mỗi dịp nghỉ hè, nên tôi rất tự tin với những giờ dạy
tiếng Hán sơ cấp. Tiếng Hán nhập môn không quá khó vì đều bắt đầu với việc nhìn
tranh học chữ. Vấn đề ở chỗ, thời cổ đại chưa có khái niệm phiên âm, nên rất
khó ghi nhớ cách phát âm.
Phương
pháp chú âm thời cổ đại gọi là “phiên thiết”, tức là dùng âm của hai chữ khác
(được coi là đã biết cách đọc) ghép lại để chú âm cho một chữ Hán mà người đọc
chưa biết cách đọc. Thông thường sẽ ghép thanh mẫu (phụ âm đầu) của chữ phía
trước với vận mẫu (vần) và thanh điệu (dấu) của chữ phía sau. Ví dụ chữ “tú” có
thể đọc thành “tê u sắc”. Phương pháp phiên thiết sử dụng bảng chữ cái riêng
gọi là “quảng vận”. Nhưng tôi đâu phải cổ nhân, tôi không đọc được những chữ
cái phiên thiết đó, tôi cũng không dám áp dụng phương pháp phiên âm, vốn là
phát minh của hai nghìn năm sau, nên tôi đành đọc mẫu rồi yêu cầu hòa thượng mô
phỏng theo và học thuộc lòng.
Tôi lôi
tập giấy nháp và bút chì ra, vừa vẽ tranh vừa giảng giải. Hòa thượng tỏ ra rất
hiếu kỳ với những đồ dùng học tập mới lạ của tôi và không ngừng đặt câu hỏi:
loại giấy trắng tinh và chiếc bút chì ngòi cứng này làm thế nào mà có? Tôi đành
phải nói dối rằng có một người kỳ lạ đã tặng cho tôi, rằng trên đời này chỉ
mình tôi có chúng và tôi cũng không biết chúng được tạo ra bằng cách nào. Sau
đó, tôi làm bộ nghiêm khắc, yêu cầu hòa thượng chuyên tâm nghe giảng, không
được hỏi gì thêm.
“Nhật
nguyệt thủy hỏa thổ, kim mộc nhĩ khẩu thủ”. Để chuẩn bị cho chuyến vượt thời
gian này, tôi đã dành ra một năm chuyên tâm luyện tập chữ phồn thể, nhưng cứ
nghĩ đến thời nhà Tần sử dụng chữ tiểu triện là tôi lại toát mồ hôi. Tôi chỉ có
thể đọc hiểu mà không thể viết được loại chữ này, mong là tôi không làm cho
lịch sử bị sai khác đi. Cũng may tiểu hòa thượng sinh sống ở Tây vực xa xôi,
cậu ta khó mà đến được Trung Nguyên.
Tiểu
hòa thượng từng học tiếng Hán nên vẫn nhớ khá nhiều chữ. Cậu ta rất chăm chỉ,
hai mắt dính chặt vào tập giấy tốc ký của tôi và gật gù liên tiếp. Mùi thơm dìu
dịu của gỗ đàn hương trên người tiểu hòa thượng tỏa lan trong không gian. Buổi
lên lớp đầu tiên của tôi đã kết thúc tốt đẹp trong hương thơm dễ chịu ấy.
Ngày
hôm sau, chúng tôi tiếp tục lên đường. Giao tiếp giữa tôi và Kumalajiba trở nên
suôn sẻ hơn. Cậu ta bắt chước rất nhanh, chỉ cần tôi cắt nghĩa một lần, cậu ta
sẽ không hỏi lại nếu trong bài giảng lần sau của tôi xuất hiện những từ đã học.
Ngoài ra, cậu ta còn biết cách sắp xếp lại theo đúng trật tự cú pháp: chủ ngữ,
vị ngữ, tân ngữ dựa trên quy tắc của ngữ pháp tiếng Hán.
Vào
thời đại này, nếu giao tiếp với người Hán, hẳn tôi phải dùng lối nói văn ngôn
cổ xưa. Nhưng với tiểu hòa thượng Tây vực, tôi vẫn áp dụng phương thức giao
tiếp phổ thông của thế kỷ XXI. Bởi vì hòa thượng là người nước ngoài, nên tôi
không lo cậu ta phát hiện ra tôi trò chuyện không đúng quy chuẩn của thời đại.
Kumalajiba thích tìm hiểu về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán của cư dân
vùng Trung Nguyên. Tôi giảng giải cho cậu ta dựa trên những kiến thức đọc được
trong sách lịch sử. Càng ngày tôi càng cảm thấy tiểu hòa thượng không những tư
chất thông minh, trí nhớ siêu phàm mà cậu ta còn có một khả năng ngôn ngữ thiên
bẩm đáng ngưỡng mộ!
Tôi hỏi
Kumalajiba vì sao lại dẫn theo quân lính, thực ra mục đích chính của tôi là tìm
hiểu thân thế của tiểu hòa thượng. Cậu ta trả lời rằng họ đã đi chu du nhiều
nước trong suốt bốn năm qua, mà khoảng cách giữa các quốc gia là những sa mạc
mênh mông, không bóng dáng sự sống, thêm nữa, những nơi họ đi qua đều thuộc khu
vực không có sự cai quản, thường xuyên bị cướp bóc. Họ không thể không dẫn theo
lính tráng để bảo vệ một lượng lớn sách kinh Phật và xá lợi quý báu trên đường
đi.
Huyền
Trang khi xưa trên đường tây du cũng từng nhiều lần bị cướp bóc. Tôi gật đầu
đồng tình và xác nhận tầm quan trọng của đội ngũ vũ trang. Nhưng tôi vẫn chưa
tìm hiểu được thân thế của hòa thượng, chỉ biết rằng, bốn năm