
chí bị mù). Tôi nhắm mắt lại, hồi tưởng về
nỗi sợ hãi khi đó.
-
Rajiva, sao tôi không thấy cậu?
- Đừng
sợ, cứ nhắm mắt lại, một lát nữa là không sao.
- Rajiva,
tôi sẽ không bị mù chứ?
- Không
đâu.
- Nếu
tôi bị mù thì phải làm sao?
- Không
đâu.
- Cô đã
trở lại!
Hả? Câu
cuối cùng hình như không nằm trong kho trí nhớ của tôi thì phải? Tôi mở mắt,
quay đầu lại. Định thần, rồi hai mắt cứ thế mở to ra, to nữa, thêm nữa, lớn đến
mức trong tầm mắt chỉ tồn tại duy nhất dáng vẻ thảnh thơi, an nhiên của cậu ấy…
Mười
năm không gặp, sao vẫn ngây ngô như vậy?
Phải
rồi, cậu ta từng nói, nếu không có vẻ mặt ngây ngô ấy, tôi sẽ thông minh hơn
rất nhiều. Trời ơi, những kỉ niệm mà tôi ngỡ vừa mới hôm qua, vậy mà đã là mười
năm thời gian đối với Rajiva. Sống mũi tôi bỗng cay cay.
- Sao
thế? Không nhận ra tôi à?
Cánh
tay phải chìa ra, sắp chạm đến vai tôi, lại đột ngột vẽ một đường vòng ngượng
ngập, rồi thu về. Ánh mắt ban đầu nhìn tôi chăm chú, bỗng chớp chớp đôi ba lần,
khẽ cúi đầu, hàng mi chùng lại. Nhưng cánh tay
lại đột ngột vươn ra nắm lấy tay phải của tôi:
- Sao thế
này?
Theo
ánh mắt của Rajiva tôi nhìn xuống lòng bàn tay mình. Cú ngã hôm qua, khiến lòng
bàn tay và khuỷu tay tôi rách toác, nhưng tôi đã giấu kỹ trong tay áo, nên nhìn
bên ngoài không thể phát hiện ra. Cho đến tận tối hôm qua, khi tôi vào nghỉ trọ
trong giáo đường của người Ba Tư, mới xắn tay áo lên xử lý sơ qua vết thương.
Lúc này, vết rách đang tím lại và sưng lên. Thời cổ đại không có thuốc chống
viêm, mắc bệnh uốn ván cũng có thể mất mạng như chơi. Nếu không chữa khỏi, tôi
chỉ còn cách trở về thế kỷ XXI…
Đang
mải nghĩ, chợt cảm thấy mình bị lôi đi.
- Đi đâu
vậy?
Bàn tay
Rajiva vẫn ấm áp và trơn ướt như xưa.
- Đi khám
bệnh.
Rajiva
ngước nhìn lên bục cao, mọi người đều đã ra về, chỉ còn lại vài hòa thượng đang
quét dọn.
- Đức vua
đã hồi cung, hãy vào cung cùng tôi.
- Cậu…
Tôi
ngập ngừng:
- Cậu
không thắc mắc vì sao tôi không hề thay đổi ư?
Cậu ta
không hỏi gì khiến tôi cảm thấy rất bứt rứt, nhưng nếu cậu ta hỏi đến, tôi phải
giải thích sao đây?
Sau
mười năm, Rajiva đã trở thành một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, còn tôi, chẳng
thay đổi gì cả. Vậy là cậu ta đã “bắt kịp” tôi, cũng hai mươi tư tuổi. Chàng
thanh niên bằng tuổi tôi ấy đang nắm tay tôi kéo đi, cẩn trọng để không chạm
vào vết thương của tôi. Nhưng Rajiva là hòa thượng và ở phía đó còn có những
người khác…
Cảm
thấy tôi đột nhiên dừng bước, Rajiva quay đầu, nhận ra tôi chú ý đến bàn tay
cậu ta đang nắm chặt tay mình. Rajiva vội thả tay ra, gương mặt lại đỏ lên rộn
ràng hệt như mười năm trước, mắt cụp xuống, khẽ nói:
- Pusyseda
bảo cô là tiên nữ…
Rồi lại
ngước lên nhìn tôi, vẫn là đôi mắt trong sáng và thuần khiết ấy.
- Dù thế
nào, cô trở về là tốt rồi…
Tôi
nghe mà sống mũi cay cay, tôi ốm mất!
Chúng
tôi không vào cung tìm ngự y nữa, tôi sợ chạm mặt người quen. Rajiva không xem
tôi là quái nhân, nhưng biết đâu những người khác sẽ trói tôi lại rồi đưa lên
giàn thiêu thì sao, tốt hơn hết là phải thận trọng! Tôi không nói với Rajiva
những lo lắng của mình, nhưng thấy tôi do dự, cậu ta hiểu ngay.
Tôi đeo
chiếc ba lô Northface lên vai rồi trèo lên xe ngựa của Rajiva, cậu ấy bảo sẽ
đưa tôi đi tìm chỗ ở. Chiếc xe ngựa của Rajiva bên ngoài trông rất giản dị
nhưng bên trong khá là thoải mái, có đệm êm, ngựa tốt. Là một hòa thượng,
Rajiva không sở hữu tài sản cá nhân, nhưng cả đời cậu ấy đều không phải lo
chuyện cơm ăn áo mặc và lúc nào cũng có người hầu kẻ hạ. Khi còn ở Kabul, chưa
đầy mười tuổi mà Rajiva đã nhận được sự đãi ngộ đặc biệt: “Mỗi ngày hai đôi
ngỗng khô, ba đấu gạo, ba đấu bột mì, sáu cân bơ. Nơi ở có năm vị tăng trẻ,
mười chú tiểu lo công việc và một số đệ tử khác lo quét dọn. Có thể thấy
Kumarajiva đã được trọng vọng như thế nào”. Trong các bộ phim truyền hình mà
tôi xem, các chú tiểu vất vả lắm cũng chỉ phải cầm chổi quét qua quét lại, Rajiva,
có lẽ cả đời cũng không phải động chân động tay vào mấy công việc lặt vặt này…
Xe ngựa
rung lắc khá mạnh cắt ngang những suy nghĩ miên man của tôi, quay lại và nhìn
sang phía đối diện, khuôn mặt Rajiva không biết từ lúc nào đã lại đỏ lên như
gấc chín
Tôi
hắng giọng, đưa mắt đến chuỗi hạt trên tay cậu ta, màu sắc không còn như trước
nữa, một số hạt đã có vết nứt.
- Cũ như
vậy mà vẫn đeo sao?
Cậu ta
cúi xuống, thu tay vào trong áo:
- Vẫn
đeo, chưa muốn thay.
Tôi lôi
trong ba lô ra chuỗi hạt mã não.
- Đeo cái
này đi.
Rajiva
nhìn chuỗi hạt trong tay tôi, hơi ngạc nhiên. Chuỗi hạt đó rất đều và đẹp, sắc
đỏ long lanh, trong suốt, chỉ nhìn cũng biết là món đồ quý giá. Một lúc sau,
cậu ta mới đưa ta ra nhận lấy chuỗi hạt, nhưng không đeo vào tay, mà thận trọng
đặt vào lòng mình.
Ánh mắt
mơ màng ngước nhìn tôi. Tôi nghĩ, xe ngựa này xóc quá…
Xe ngựa
chạy mãi, tôi kéo rèm nhìn ra bên ngoài, vậy là chúng tôi đang đi về hướng bắc,
bên đường, ruộng nương trải rộng mênh mông, chắc chắn đã ra khỏi