
hưa hết đỏ. Tôi hắng giọng, làm bộ nghiêm trang
hỏi:
- Chùa
này là chùa gì?
Rajiva
ngẩng đầu, ổn định hơi thở, bình tĩnh đáp:
- Là
chùa Acharya. Cô còn nhớ chứ, tôi từng dạy cô, ‘Acharya’ nghĩa là ‘kỳ lạ’.
- Vì
sao lại có tên là ‘kỳ lạ’?
Ngày
trước có một vị vua sùng đạo Phật, ông muốn đi du ngoạn khắp nơi kiếm tìm và
chiêm bái Phật tích, nên giao lại công việc triều chính cho người em trai.
Trước khi vua lên đường, người em trao cho ngài một chiếc túi thơm, dặn dò phải
chờ đến khi trở về mới được mở ra xem. Ngày vua về nước, có người tố giác em
vua thác loạn trong cung. Vua nổi trận lôi đình, tống giam người em vào trong
ngục, chờ ngày xử tội. Người em nhắc nhở vua mở chiếc túi thơm ngày trước ra
xem. Khi mở ra, nhà vua nhìn mà không hiểu, mới hỏi người em bên trong là thứ
gì?
Rajiva
đột nhiên ngừng lại, khiến tôi sốt ruột:
Là thứ
gì vậy?
- Cậu ta
cứ chần chừ, sắc đỏ trên gương mặt thanh tú vừa nhạt bớt đã lại ửng lên.
Tôi nhớ
ra rồi. Trong “Đại Đường Tây vực ký”, Huyền Trang từng ghi lại câu chuyện này.
- Là cơ
quan sinh dục của người em, đúng không?
Tôi xoa
tay lấy hơi ấm, trong lòng vui mừng khôn tả, thật không ngờ, tôi sẽ được chiêm
ngưỡng ngôi chùa “kỳ lạ” này trước Huyền Trang những hai trăm năm.
- Người
em này thật đáng khâm phục. Ông ta sớm biết sẽ có kẻ hãm hại mình mà ông chẳng
thể chứng minh mình trong sạch, nên đã tịnh thân làm thái giám, cốt để bảo toàn
tính mạng.
Tôi
không nhịn được, bật cười ha hả:
- Có
điều, cái giá phải trả cao quá!
Rajiva
lạ lùng nhìn tôi, có lẽ vì không thể tin được tôi lại có thể thảo luận rất tự
nhiên vấn đề nhạy cảm đó không chút e dè. Tôi biết ý, không cười nữa, gượng gạo
hỏi:
- Sau đó
thì sao?
- Người
em nói với vua rằng: Ngày trước, khi đức vua lên đường đi du ngoạn, người em lo
sợ sẽ có kẻ buông lời gièm pha hòng hãm hại mình, nên mới bất đắc dĩ nghĩ ra
cách này. Chẳng ngờ, tai họa quả đã xảy ra. Nhà vua vô cùng kinh ngạc, sau thấy
thương em, bèn cho phép người em được tự do ra vào trong cung. Vào ngày nọ,
trên đường đi, người em tình cờ gặp một lái buôn đang lùa theo năm trăm con bò,
nói rằng sẽ đưa đi thiến. Người em cảm thấy đó là nghiệp chướng do mình gây
nên, mới động lòng trắc ẩn, dùng tiền chuộc lấy đàn bò. Sau đó, cơ thể của
người em dần dần trở lại bình thường như xưa. Vì không muốn bị kẻ xấu tiếp tục
hãm hại, người em không ra vào cung nữa. Nhà vua thấy lạ, hỏi ra mới biết đầu
đuôi câu chuyện. Nhà vua bèn hạ chỉ xây chùa này và đặt tên là “kỳ lạ”, đến nay
đã được hơn ba trăm năm.
Tôi
không kìm chế được lại bật cười ha hả:
- Không
thể tin được! Cái đó có thể mọc trở lại được ư? Hay là người em vốn dĩ không hề
cắt bỏ đi. Hoặc không xử lý đến nơi đến chốn.
Rajiva
làm bộ lạnh lùng, nhưng hai gò má vẫn ửng đỏ, giọng nói chắc nịch:
- Người
em chuộc lấy đàn bò, tích nhiều công đức, Phật tổ đại từ đại bi dùng pháp lực
của mình phục hồi sức khỏe cho người em, sao lại nói người đó cố ý lừa gạt?
Chính nhờ điển tích kỳ lạ này mà nơi đây đã sản sinh ra không biết bao nhiêu vị
cao tăng đắc đạo. Tăng sĩ tử nhiều nơi khác nghe tiếng đã nô nức kéo về đây học
đạo. Quốc vương cùng các đại thần hết lòng ủng hộ, công đức, nhờ vậy hơn ba
trăm năm qua, hương khói chưa bao giờ tắt trong chùa. Nếu Phật tổ không cảm
động trước tấm lòng của người em, nếu không nhờ pháp lực của Ngài, thì làm sao
giải thích được điều này?
Tôi tự
phạt bằng cách tát khẽ vào miệng mình, tôi không nên làm tổn thương tình cảm
tôn giáo của cậu ta! Chuyện này thực ra cũng rất khó giải thích thỏa đáng. Vì
người trong cuộc không còn, cũng không thể kiểm tra, chỉ có thể tin rằng truyện
kể đó là có thật thôi!
Chúng
tôi vừa đi vừa trò chuyện, một lúc đã đến trước cổng chính của ngôi chùa. Vị sư
chúng tôi gặp ngoài cổng nhìn thấy Rajiva đã vội vã đi thông báo cho trụ trì.
Chưa vào đến đại điện, trụ trì đã dẫn theo mấy vị cao tăng hòa thượng ra nghênh
đón chúng tôi. Vị trụ trì cao tuổi tỏ ra rất cung kính khi trò chuyện với
Rajiva.
Rajiva
giới thiệu tôi là giáo viên tiếng Hán của cậu và vì sang xuân tôi phải rời khỏi
Khâu Từ, nên hôm nay dẫn tôi đi tham quan một vòng thành phố. Trụ trì nghe
xong, tỏ ý hoan nghênh, đích thân dẫn đường và giới thiệu tỉ mỉ cho chúng tôi
về ngôi chùa. Chùa Acharya đồ sộ hơn nhiều so với chùa Tsio- li, nhờ
có câu chuyện ly kỳ đó, lượng người đến đây thắp hương cúng bái rất đông. Cột
trụ mái hiên trong các gian thờ rất cao, thoáng và rộng, tượng Phật được điêu
khắc và trang trí tinh xảo, tranh vẽ trên tường cũng sống động với những đường
nét phức tạp. Tôi vừa ngắm nhìn vừa ca tụng. Lòng khát khao được họa lại những
bức vẽ tài hoa đó.
Đi hết
một vòng, tôi ngượng ngùng xin phép đi giải quyết vấn đề cá nhân. Trụ trì cử
một chú tiểu đưa tôi đi. Không muốn bắt cậu ta đứng chờ ở cửa, tôi bảo cậu ta
về trước, rồi tôi sẽ tự tìm đường về sau.
Từ nhà
xí bước ra, đang chuẩn bị quay lại đại điện, tôi bỗng nghe thấy tiếng thì thầm
to nhỏ của hai nhà sư ở một góc khuất tại một hướng rẽ khác, họ nhắc