
ại này đã là rất muộn rồi, nhưng tôi vẫn ngủ thêm ngủ nếm, vớt vát được
chút nào hay chút ấy. Rajiva đã quen với thời gian biểu: bảy, tám giờ tối đi
ngủ, bốn giờ sáng thức giấc. Mấy đêm đầu chung sống, Rajiva ngủ trước, tôi ngồi
viết nhật ký đến hơn mười giờ. Nhưng tôi nhận thấy, khi tôi lên giường ngủ,
chàng vẫn còn thức. Gặng hỏi mãi, chàng mới mới nói vì chàng rất mẫn cảm với
ánh sáng và tiếng động, nên phải chờ khi tôi tắt đèn đi ngủ, chàng mới ngủ yên.
Để đảm bảo chất lượng giấc ngủ cho chàng, tôi đành theo chàng đi ngủ khi trời
vừa sẩm tối. Rồi tôi xót xa phát hiện ra rằng, mình chẳng thể tiếp tục làm con
mèo lười được nữa. Bốn giờ sáng, Rajiva thức dậy và đặt một nụ hôn nhẹ lên trán
tôi là tôi liền tỉnh giấc, ngủ thêm sẽ nhức đầu. Sau đó thì chàng sẽ vừa tụng
kinh vừa kinh ngạc khi thấy tôi tập thể dục buổi sáng, chạy huỳnh huỵch, thở
hồng hộc trong sân.
Tôi bắt
đầu học theo người cổ đại. thức giấc khi mặt trời mọc và lên giường khi mặt
trời lặn. Tự động viên, rồi sẽ quen thôi!
Bởi
vậy, vòng năm. Rajiva chiến thắng!
Về thói
quen sinh hoạt, cả hai chúng tôi đều cố gắng thích nghi với sự tồn tại của
người kia, quan sát lối sống của người kia một cách hiếu kì, cố gắng hi sinh
một số nhu cầu và nguyện vọng cá nhân mình vì người kia. Tôi thấy rất hài lòng
với cuộc sống chung. Còn Rajiva, tôi cũng có thể cảm nhận được niềm hân hoan
của chàng, những bỡ ngỡ, ngạc nhiên của chàng và những thay đổi mau lẹ trong
thái độ tiếp nhận sự xuất hiện của một người khác ở bên cạnh mình. Chúng tôi
đều đang nỗ lực tạo dựng thế giới của hai người.
Nhưng,
đó chưa phải là toàn bộ cuộc sống. Chúng tôi vẫn còn một vấn đề nữa cần giải
quyết là lại là vấn đề vô cùng bức thiết: chúng tôi sẽ làm gì những lúc rảnh
rỗi trong thời gian bị giam lỏng tại đay? Nếu không bị giam giữ, chắc chắn tôi
sẽ ra ngoài vào ban ngày để tiến hành công việc khảo sát. Mọi khung cảnh thuộc
về đời sống cổ đại, từ ăn ở cho đến đi lại, đều có thể trở thành nội dung khảo
sát của tôi. Còn Rajiva, chàng cũng có rất nhiều việc cần giải quyết khi ở
trong chùa. Chỉ bảo đệ tử, giảng kinh thuyết pháp, truyền thụ giáo láy Phật
pháp; giao lưu, luận chiến với các tăng sĩ đến từ Ấn Độ, Kabul, Tây vực hay các
vùng khác của trung nguyên xa xôi, truyền bá rộng rãi giáo lý Đại Thừa; đi sâu
tìm hiểu đời sống của người dân, tuyên truyền Phật pháp để ngày càng nhiều
người hướng thiện, tín Phật.
Nhưng
chiếc lồng son này đã đảo lộn đời sống thường nhật của chúng tôi. Đôi lúc ánh
mắt chàng nhìn tôi vương chút buồn bã, đôi lúc thấy chàng đứng giữa vườn hoa
ngát hương, lặng lẽ ngước lên khoảng không bao la rất lâu, tôi hiểu rằng, tôi
phải tạo ra công việc gì đó cho chàng.
Vậy
nên, một ngày kia. Sau khi kết thúc bữa sáng, tôi kéo chàng đến bên bàn đọc
sách, sau đó lôi giấy bút trong ba lô ra trước sự kinh ngạc của chàng.
- Cơm
nước no nê rồi, bây giờ phải làm việc thôi!
- Việc gì
vậy?
- Chúng
ta đang trong cảnh tù đày, phải nghĩ ra một công việc gì đó để làm, nếu không
sẽ rất buồn chán. Bây giờ, chàng hãy chép lại kinh văn, sau đó suy nghĩ xem nên
dịch sang tiếng Hán như thế nào.
- Dịch
sang tiếng Hán ư?
- Phật
giáo khởi nguồn từ Thiên Trúc, mọi thư tịch đều được chép bằng tiếng Phạn. Nếu
muốn truyền bá rộng rãi Phật giáo đến Trung nguyên, chàng phải dịch sang tiếng
Hán để người Hán có thể đọc và hiểu được.
Tôi mỉm
cười giải thích:
- Hầu
hết các bộ kinh Phật được sử dụng ở Trung Nguyên hiện nay đều được dịch từ các
ngôn ngữ cả các quốc gia khác nhau ở Tây Vực. Trong quá trình chuyển dịch từ
tiếng Phạn sang ngôn ngữ địa phương Tây Vực, ngữ nghĩa của kính văn vốn đã
không còn trọn vẹn, sau đó lại được chuyển dịch lần hai sang tiếng Hán, mức độ
khác biệt so với nguyên nghĩa lại càng xa hơn. Sai sót trong quá tình dịch
thuật, tam sao thất bản, khiến cho câu chữ trở nên cong vênh, cứng nhắc, ảnh
hưởng rất lớn đến việc tuyên truyền giáo lý Phật pháp… Cả hai ngôn ngữ tiếng
Phạn và tiếng Hán đều rất phức tạp. Các tăng sĩ từ Thiên Trúc và Tây vực đến
Trung Nguyên truyền đạo, muốn phiên dịch kinh Phật đều cần đến sự giúp sức của
tăng sĩ Tây Nguyên. Nghe câu đoán ý, dù có thể bảo lưu nguyên nghĩa, nhưng lại
mất đi ngữ điệu, vần vè. Cho đến nay, vẫn chưa có ai tinh thông cả hai ngôn ngữ
này để có thể thay đổi tình hình. Rajiva, một giáo phái muốn được lưu truyền
rộng khắp, trước hết phải làm cho càng nhiều người đọc được các giáo lý của
giáo phái đó càng tốt. Chàng sẽ là người thay đổi phương pháp dịch từng câu
từng chữ cứng nhắc, thậm chí dịch sai, đang diễn ra phổ biến hiện nay.
Ánh mắt
chàng bừng sáng, nhìn tôi chăm chú, không giấu giếm sự ngưỡng mộ. Chàng đã
hiểu, muốn truyền bá đạo Phật đến Trung Nguyên, việc phiên dịch những bộ kinh
văn sang tiếng Hán với độ chính xác cao. Lại dễ nghe dễ hiểu có tầm quan trọng
như thế nào.
- Chỉ e
trình độ Hán ngữ có hạn của ta chẳng thể cho ra đời những bản dịch chuẩn xác và
thuận tai được.
Chàng
nắm lấy tai tôi, ánh mắt chứa chan kì vọng.
- Ngải
Tình, giúp ta nhé!