
ng
chọn Đỗ Tấn vì chức vụ của ông ta quá cao, nếu tôi nói mình là thê thiếp của
ông ta, chắc chắn sẽ có người sinh nghi. Còn Đoàn Nghiệp, lúc này mới hai mươi
tuổi, chỉ là một văn thư quèn dưới trướng Đỗ Tấn, những người biết rõ về thê
thiếp của người này chắc không nhiều. Hành quân ra trận vốn dĩ không được đưa
người thân đi cùng, nhưng vì Lữ Quang muốn chiếm đóng Khâu Từ lâu dài, nên đã
cho phép tướng lĩnh của mình nạp thiếp.
Những
người đó quả nhiên lộ vẻ bực tức, vì họ chẳng dám đắc tội với cấp trên. Tôi thở
phào, định xoay người bước đi thì một người trong số họ cứ nằng nặc đòi đưa tôi
đến gặp Đoàn Nghiệp, chắc là muốn nịnh bợ đây mà! Từ chối không được, vả lại
nghĩ rằng một thân một mình cũng khó vào thành, tôi liền ưng thuận đi theo anh
ta.
Đường
vào thành trải ra trước mắt tôi những vết tích tang thương mà chiến tranh gây
nên. Xác người, xác ngựa la liệt trên đường, mùi xú uế nồng nặc khắp nơi. Xe
ngựa, gạch đá dùng để công phá thành nằm ngổn ngang trên lối đi. Gươm đao giáo
mác cong mẻ gập gẫy chất đầy đường. Những bức tường thành Khâu Thành loang lổ,
vỡ nát, tan hoang.
Không
được chứng kiến tận mắt trận chiến này, nên tôi chỉ có thể nhớ lại những ghi
chép trong sách sử.
Quân
của Lữ Quang có bảy mươi ngàn bộ binh, năm ngàn kỵ binh, cộng thêm binh lực của
Shanshan và Chrish đi tiên phong, tổng cộng khoảng một trăm ngàn quân. Còn Bạch
Thuần, dốc sạch quốc khố cầu viện Khoái Hồ, Khoái Hồ phái hơn hai mươi vạn quân
đến chi viện. Cộng thêm binh lực của Wensu, Weitou, tổng cộng hơn bảy trăm ngàn
quân.
Cuộc
chiến với binh lực quá ư chênh lệch ấy lại mang về chiến thắng vang dội cho Lữ
Quang, ông ta quả không hổ danh là tướng tá đắc lực của Phù Kiên. Sách “Tấn
thư” chép rằng, khi ấy, các tướng sĩ đều cho rằng: địch đông ta ít, cần dựng trại,
dàn trận, tính kế lâu dài. Nhưng Lữ Quang không nghe, nói rằng: địch đông ta
ít, càng dàn trận càng phân tán lực lượng, không phải kế hay.
Lữ
Quang lệnh cho binh lính dựng trại phía nam thành Khâu Từ, cứ năm dặm một trại,
đào hào sâu, đắp lũy cao, dùng kế nghi binh, đội mũ sắt, mặc áo giáp, cắm cờ
lên bù nhìn bằng gỗ giả người thật, nhằm đánh lạc hướng quân Khâu Từ trong nội
thành. Sau đó, dẫn đại quân đón đánh liên quân Khoái Hồ ở phía tây. Kỵ binh
Khoái Hồ nhất loạt mang áo giáp sắt, giáp trụ cứng như thép, mũi tên không thể
xuyên thủng. Thêm vào đó, quân yểm trợ lại là đội khinh kỵ tinh nhuệ, sử dụng
roi da làm vũ khí, thúc ngựa vung roi quật ngã đối phương, trăm phát trăm
trúng. Bởi vậy, giai đoạn đầu cuộc chiến, Lữ Quang rơi vào thế yếu.
Lữ Quang
nhận thấy quân Khoái Hồ chỉ có đội kỵ binh là tinh nhuệ, đội quân còn lại tuy
đông đảo nhưng chỉ là đám dân du mục bị bắt đi lính nên Lữ Quang nghĩ ra cách
đối phó với kẻ địch là chặt chân ngựa chiến. Đám kỵ binh khi bị ngã trở nên bất
lực, vì bộ giáp sắt mặc trên người quá nặng khiến họ không thể di chuyển, càng
không thể chống trả. Quân của Lữ Quang chặt đầu hơn mười ngàn lính Khoái Hồ,
tin tức bay về khiến Bạch Thuần run sợ. Đức vua Khâu Từ vội vàng vơ vét của
cải, bỏ thành mà chạy. Hơn ba mươi nước chư hầu trong vùng nghe nói Khâu Từ bại
trận, đã ùn ùn kéo đến xin hàng.
Bạch
Thuần thua trận khi đã gần sáu mươi tuổi, ông ta trốn chạy đến đâu, sử sách
không ghi chép. Lữ Quang chiếm thành, đưa người em út của Bạch Thuần là Bạch
Chấn lên ngôi vua.
Khâu Từ
là quốc gia mạnh nhất ở Tây vực, điều đó khiến các nước chư hầu khác không hài
lòng. Bởi vậy khi được lệnh đến Trường An cống nạp, vua nước Shanshan, vua nước
Chrish và Bạch Chấn đã gặp riêng Phù Kiên, thỉnh cầu vua Hán chinh phục Tây vực
và xin làm “hoa tiêu dẫn đường”. Quân của Lữ Quang có thể thuận lợi vượt qua ba
trăm dặm cồn cát và những sa mạc mênh mông nối tiếp nhau ở Tây vực, phần lớn
nhờ vào công lao của các “hoa tiêu” này trong đó cũng có sự đóng góp của Bạch
Chấn, vì từ lâu “cậu út” đã có dã tâm đoạt ngôi.
Vừa đi
vừa nhớ lại những ghi chép trong các tài liệu lịch sử, chẳng mấy chốc đã đến
cổng thành. Thành Khâu Từ phồn hoa thịnh vượng năm nào giờ đây hoàn toàn vắng
lặng, đìu hiu. Lác đác vài bóng người trên phố, nhà nào nhà nấy cửa đóng then
cài. Quân lính của Lữ Quang mặt đỏ gay gắt, chân nam đá chân chiêu, ngật ngưỡng
trên phố vắng, thấy nhà nào cửa hẹp tường cao là xông vào, theo sau đó là những
tiếng gào khóc thảm thiết vang lên.
Sau khi
vào thành và nhìn thấy cung điện nguy nga, tráng lệ của Bạch Thuần, Lữ Quang đã
hạ lệnh cho Đoàn Nghiệp viết một bài phú “Cung điện Khâu Từ” với nội dung châm
biếm, đả kích. Người dân Khâu Từ có cuộc sống no đủ và họ rất biết cách hưởng
thụ, trong nhà mỗi gia đình đều ủ rất nhiều rượu nho. Mỗi gia đình thậm chí cất
giữ hàng nghìn thùng rượu, sau mười năm, hương rượu nồng nàn thấm đẫm trong
khuôn viên phủ đệ. Lữ Quang vì muốn khoản đãi tướng sĩ sau chiến thắng, đã dung
túng cho đám lính của mình thỏa sức cướp bóc, số quân lính ngập chìm, thậm chí
bỏ mạng trong men rượu nhiều không đếm xuể.
- Đoàn
đại nhân!
Suy
nghĩ bị cắt ngang, tên lính ngườ