
g bộ xương người trong viện bảo tàng ở Tân Cương, tôi cũng từng theo đoàn
khảo cổ đi khảo sát những lăng mộ dưới lòng đất. Chưa kể đến những thi thể
không đầu trong các động đá thuộc vương quốc Guge (Tây Tạng) cổ đại, vì ở trên
cao nguyên, không khí loãng, trải hơn sáu trăm năm lịch sử, các thi thể vẫn
chưa phân hủy hoàn toàn, đến tận bây giờ vẫn nồng nặc mùi xú uế. Vụ thảm sát ở
Nam Kinh với hố chôn hàng vạn người, đài tưởng niệm được xây dựng dưới lòng
đất, mỗi khi bước chân vào đó, những bộ xương trắng bao quanh bạn, cảnh tượng
thảm thương đến mức khiến bạn phải nhắm mắt lại, không dám nhìn. Tôi không phải
kẻ nhát gan, vì nếu thế tôi đã không theo học ngành lịch sử. Nhưng chưa bao giờ
tôi khiếp sợ như thế này. Tận mắt chứng kiến sự chết chóc và hệ hô hấp không
ngừng thu nạp thứ mùi hôi thối đặc trưng của thi thể vừa bắt đầu phân hủy ấy và
tôi lại đang ở nơi mà một khoảng trống không xác người để đặt chân lên cũng
không có. Tôi ngẩng đầu, vậy là mặt đất đang ở cách tôi một khoảng vượt quá
chiều cao của tôi.
Trong
ba lô của tôi có dây móc và một vài vật dụng trèo tường chuyên dụng. Trước đó,
nhóm nghiên cứu đã mời giáo viên thể dục và lính đặc công đến huấn luyện cho
tôi một số thao tác cơ bản để có thể giúp tôi sống sót trong thời đại mà tính
mạng con người bị coi như cỏ rác này. Tôi đã mặc quần áo rằn ri để luyện tập
vượt qua tường cao, nhảy qua hố sâu, học cách vật lộn và những kỹ thuật phòng
thân của con gái. Tuy thời gian tập luyện rất ngắn ngủi, trình độ chỉ ở bậc
amateur, nhưng ít nhiều cũng có chút kỹ thuật. Nhưng, vấn đề ở chỗ, tay chân
mình mẩy tôi lúc này đang run lên cầm cập, thậm chí không đủ sức để lấy công cụ
trong ba lô ra nữa. Trừ phi tôi phải nhắm chặt mắt lại để không phải nhìn thấy
những cánh tay, bắp chân đứt rời và nhầy nhụa máu, bịt chặt mũi để không ngửi
thấy thứ mùi khủng khiếp nhất trên cõi đời ấy. Mà như thế, cả não bộ của tôi
cũng trở nên tê liệt, tôi không kéo nổi khóa ba lô, nỗi sợ hãi bật lên thành
tiếng khóc.
Lại
một thi thể bị ném xuống, thiếu chút nữa đã đè nát người tôi. Bên trên có
người! Tôi như kẻ chết đuối vớ được cọc, không kịp suy nghĩ, tôi vội gào lên
kêu cứu. Mấy cái đầu người nhô ra trên mặt đất, vẻ mặt hoảng sợ. Có lẽ họ nghĩ
tôi là xác chết sống dậy. Tôi vội vàng giải thích tôi là người sống, do bất cẩn
nên mới sa chân xuống hố. Gào thét một thôi một hồi mới thấy một sợi dây thừng
được thả xuống.
Lên đến
mặt đất mà tôi vẫn trong trạng thái hồn bay phách lạc, sau đó thì nhận ra rằng
tình trạng sau khi được cứu thoát cũng không mấy sáng sủa. Những người kéo tôi
lên có vẻ như là binh lính của Lữ Quang và vì phụ trách công việc dọn dẹp chiến
trường, chôn lấp xác chết nên họ đều là những lính tráng hoặc già nua yếu đuối,
hoặc bệnh tật đầy mình. Bị vây bọc giữa đám lính chẳng có vẻ gì là thân thiện,
tử tế này khiến tôi không khỏi than thở cho tình cảnh “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”
của mình.
Chưa
hoàn hồn với nỗi kinh hoàng vừa trải qua, tôi đã phải nhanh chóng nghĩ cách đối
phó với tình cảnh trước mắt. Trong chiến tranh, phụ nữ bị xem là chiến lợi
phẩm. Những thương binh tàn phế này làm gì có cơ hội xung phong lên tuyến đầu
để có thể được ban thưởng phụ nữ hay vàng bạc, châu báu kia chứ. Vậy nên họ
chắc chắn sẽ xem tôi như một món quà từ trên trời rơi xuống. Tuy có mang theo
súng gây mê, nhưng ở khoảng cách gần như vậy, lại đông người thế này, tôi không
biết mình có thể bắn hạ bao nhiêu tên.
Trước
mặt tôi đều là những khuôn mặt người Hán, tôi gắng gượng cười thật tươi, chắp
tay cung kính, thưa chuyện với họ bằng tiếng Hán:
- Thưa
các anh, tôi vốn là thê thiếp mới của ngài Đoàn Nghiệp, bộ hạ của tướng quân Đỗ
Tấn. Hôm nay ra ngoại thành hái thuốc, chẳng mai trượt chân rơi xuống hố sâu,
gây cản trở công việc của các anh, tôi xin có lời tạ lỗi.
Trong
số các bộ hạ người Hán theo Lữ Quang Tây chính, tôi chỉ biết Đỗ Tấn và Đoàn
Nghiệp. Đỗ Tấn là tướng tá đắc lực của Lữ Quang, mà công lao to lớn nhất của Đỗ
Tấn là giúp Lữ Quang bình định Hà Tây[23'>.
Sau đó, Đỗ Tấn đã được phong chức tướng quân hộ quốc, rồi Thái thú võ uy. Nhưng
vì quyền cao chức trọng, ra vào oai vệ chẳng khác nào Lữ Quang, nên Lữ Quang
sinh lòng đố kỵ đã viện cớ trừ khử Đỗ Tấn.
Còn
Đoàn Nghiệp, chính là người lập ra nhà Bắc Lương thời Thập lục quốc, nhưng lại
chỉ là một thư lại nhỏ bé dưới trướng Đỗ Tấn khi Lữ Quang đem quân chinh phạt
Khâu Từ, về sau, Đoàn Nghiệp được thăng chức Thái thú Kiện Khang (nay là Tửu
Tuyền, Cam Túc). Năm 397, Thư Cừ Nam Thành, người Hung Nô lật đổ nhà Hậu Lương
của Lữ Quang, đưa Đoàn Nghiệp lên ngôi vua Lương nhằm mua chuộc lòng người. Thế
là từ một bậc “nho nhã, không chút quyền hành trong tay”, Đoàn Nghiệp bỗng
nhiên trở thành quốc vương của Bắc Lương thời Thập lục quốc.
Quân
đội của Lữ Quang tập hợp đủ mọi tộc người. Lữ Quang cùng thuộc tộc người Đê với
Phù Kiên. Còn tôi mang diện mạo của một người Hán, bởi vậy, phải tìm một người
Hán để có thể qua mặt đám quân lính trước mắt. Tôi chọn Đoàn Nghiệp mà khô