
rông nữa chứ.
Tôi không sợ chú Võ Tòng như cái đêm đã gặp
chú lần đầu tiên ởbờ sông, mà lại còn có đôi chút cảm tình xen lẫn với ngạc
nhiên hơi buồn cười thế nào ấy.
Tía nuôi tôi ngó tôi, cười
cười nhấc cái tẩu thuốc lá ở miệng ra..
- Nhai bậy một miếng khô nai đi, chú em. Cho
đỡ buồn miệng mà - Chú Võ Tòng nhặt trong lửa ra một ra một thỏi khô nướng to
nhất đặt vào tay tôi.
Con vượn bạc má lại kêu "Ché... ét
ché.,. ét..., ở phía trên đầu tôi. Tôi cứ mặc kệ nó, vừa xé miếng thịt khô ướp
muối sả nướng thơm phúc cho vào mồm nhai, vừa đưa mắt nhìn quanh ngôi nhà lều.
Trên vách lều đóng đầy mồ hóng đen sì, một chùm xương sọ khỉ ước chừng vài mươi
cái treo lủng láng cạnh những đầu con nhọ nồi khô, những chân tay khỉ, tay chân
dọc xâu từng đôi một, gác trên đoạn sào nhỏ. Mùi lông khét xông khói lâu ngày
từ trong mớ lổn nhổn ấy tỏa ra, cùng với một làn khói gì mùi hăng hắc, màu xanh
xanh bay ra từ chiếc nồi đậy kín vung sôi ục ục. trên bếp cà -ràng, khiến tôi
có một thứ cảm giác rợn rợn không tả được. Dường như những cái bóng lặng lẽ
ngồi bên bếp đây đang sống lùi lại từ cái thời kỳ loài nguời mới tìm ra lửa
vậy.
***
Không ai biết tên thật của gã là gì. Mười mấy
năm về trước gã một mình bơi một chiếc xuồng nát đến che lều ở giữa khu rừng
đầy thú dữ này. Gã sống đơn độc một mình, đến con chó làm bạn cũng không có.
Hồi ấy, rừng này còn nhiều hổ lắm. Một mình gã đã giết hơn hai mươi con hổ. Một
buổi trưa gã đang ngủ trong lều, có con hổ chúa mò vào, từ ngoài sân phóng một
cái phủ lên người gã. Bất thần gã tỉnh dậy. Gã vớ luôn cái mác thông bên người,
cũng không kịp ngồi dậy nữa, cứ nằm ngửa thế mà xóc mũi mác lên đâm thẳng một
nhát vào hàm dưới con hổ chúa, hai chân gã đá thốc lên bụng nó, không cho con
ác thú kịp chụp xuống người. Con hổ chúa lộn vòng, rơi xuống đất. Lưỡi mác đâm
từ hàm dưới thấu lên tận óc, làm nó không há họng được, nhưng vẫn còn cố vớt
cái tát cuối cùng, để lại trên mặt gã một hàng sẹo khủng khiếp chạy từ thái
dương xuống cổ. Không biết có phải do đấy mà gã mang tên "Võ Tòng"
hay không? Chứ theo như một vài ông lão đa sự, thì ngày xưa gã là một chàng
trai hiền lành, ở tận một vùng xa lắm. Gã cũng có gia đình đàng hoàng như ai.
Vợ gã là một người đàn bà trông cũng xinh mắt. Chị ấy lúc chửa đứa con đầu lòng
cứ kêu thèm ăn măng. Gã đàn ông hiền lành, quý vợ hết mực bèn liều xách dao đến
bụi tre đình làng xắn một mụt măng. Khi về qua ngang bờ tre nhà tên địa chủ,
tên này bắt gã bỏ mụt măng xuống và vu cho gã lấy trộm măng tre của hắn. Gã một
mực cãi lại, nhưng tên đại địa chủ quyền thế nhất xã ấy cứ vung ba-toong đánh
lên đầu gã. "Đánh đâu thì còn nhịn được, chứ đánh lên đầu là nơi thờ phụng
ông bà... thì số mày tới rồi! " Lưỡi dao trên tay gã không cho phép tên
địa chủ ngang ngược kia giơ tay đánh ba-toong lên đầu gã đến cái thứ hai. Nhát
dao chém trả vào mặt đã gí tên bóc lột và hống hách này nằm gục xuống vũng máu.
Nhưng gã không trốn chạy. Gã đường hoàng xách dao đến ném trước nhà việc bó tay
chịu tội.
Sau mười năm tù đày, gã trở về làng cũ nghe
tin vợ đã làm lẽ tên địa chủ kia, và đứa con trai độc nhất mà gã chưa biết mặt
thì đã chết từ khi gã còn ngồi trong khám lạnh.
Người trong xã vốn ghét tên địa chủ hống
hách, khấp khởi chờ xem cuộc rửa thù bằng máu lần thứ hai. Nhưng họ đã thất
vọng. Gã chỉ kêu trời một tiếng rồi cười nhạt bỏ làng ra đi. Những người đa sự
quả quyết rằng chính gã đã mang tên Võ Tòng từ lúc xách dao đến nhà việc chịu
tội.
Còn như những chữ bùa xanh lè xăm rằn ri trên
người gã, và gã trở nên một người giỏi võ từ lúc nào, thì có kẻ nói đó là dấu
vết trong những năm gã Ở tù, lại có người bảo đó là mới có từ lúc gã đi giang
hồ. Hơn mười năm sống trơ trọi giữa rừng mặc dầu cũng có nhiều người đánh tiếng
mối mai cho gã, nhưng tuyệt nhiên Võ Tòng không để mắt tới một người đàn bà nào
nữa. Ở trong rừng lâu năm chầy tháng, gã ngày càng trở nên kỳ hình dị tướng.
Nhưng ai cũng mến gã ở cái tính tình chất phác thật thà, lúc nào cũng sẵn sàng
giúp đỡ mọi người mà không hề nghĩ đến chuyện người ta có đền đáp lại mình hay
không. Điều đó, má nuôi tôi quả quyết, nói một cách chắc chắn như vậy...
Chú Võ Tòng vẫn ngồi đó, đối diện với tía
nuôi tôi, bên bếp lửa. Tía nuôi tôi tay cầm một chiếc nỏ lên ngắm nghía; bật
thử sợi dây nỏ trên đầu ngón tay nghe tưng... tưng " rồi lại đặt xuống.
Chú Võ Tòng rót rượu ra bát uống một ngụm,
trao bát sang cho tía nuôi tôi, và nói:
- Con dao găm của anh Hai cùng với cánh nỏ này,
thừa làm nên chuyện. Mình thì cần gì tới súng? Mấy thằng nhát gan mới cần súng,
vì súng ở xa cũng bắn được mà! Phải không anh Hai? Tôi cho rằng súng dở lắm,
động tới thì kêu ầm ĩ. Tôi ghét tiếng nổ lắm. Như cái bận tôi làm vừa rồi đấy.
Tách một tiếng, chết ngay thằng giặc Pháp râu xồm, mà cái thằng đứng cách năm
sáu thước không hay biết gì cả. Tới chừng tôi mò ra tháo cây tiểu liên nghe
động sột soạt, nó mới quay lại thấy tôi, liền bắn tôi một phát súng mút nhưng
trượt. Tiếng súng của nó bắn ra mà cha con chúng