
là chưa kể thuế.
- Đắt quá nhỉ! – Cao Dương tặc lưỡi – Hơn chín trăm, dán kín mình trâu đấy!
- Tiền mất giá rồi- Chú Tư nói – Nửa năm, thịt lợn tăng chín hào! Hay dở gì thì một năm cũng khó mua nổi vài cân thịt!
- Chú Tư, chú vẫn kiếm ra tiền. Con trâu này mỗi năm đẻ một con, nếu là cái, coi như ăn không con mẹ. Nuôi trâu hơn trồng tỏi.
- Anh tính mới ngon lành làm sao? – Chú Tư nói – Thế trâu uống gió bấc mà sống à? Thế không ăn cỏ, không cám bã?
Đêm càng khuya, họ không nói chuyện nữa. Xe
trâu, xe lừa lắc lư như mộng du. Cao Dương quả thực hơi buồn ngủ, thương cao lừa thì thương, anh vẫn leo lên càng xe, tựa lưng vào dóng ngang,
mi mắt nặng trĩu, Anh cố cưỡng lại cơn buồn ngủ. Lại phải đi vào hoang
mạc, những lùm cây lúp súp hai bên đường vẫn như hôm qua, có đều trăng
chưa lên, cành lá không đóm sáng. Những con cuốc, giun dế, những côn
trùng biết kêu thì cũng như hôm qua, ra rả không ngừng.
Lên dốc, con lừa bị thở phì phò như người bị
bệnh suyễn. Anh nhảy xuống xe, con lừa thở nhẹ đi. Chú Tư vẫn ngồi trên
xe, kệ cho con trâu đang chửa loay hoay vượt dốc. Cao Dương lạnh người
cảm thấy chú Tư là con người tàn nhẫn. Anh tự nhủ, sau này không chơi
với loại người như thế.
Lên được nửa dốc, mặt trăng đang
nhô lên từ rất xa ở phương đông. Anh biết, theo qui luật, giờ này muộn
hơn một chút so với hôm qua, mặt trăng bé hơn một chút so với hôm qua.
Trăng vàng vọt, hơi đỏ. Có màu vàng nhạt, hồng hồng, nhờn nhợt, đùng
đục, mệt mỏi, ngái ngủ, hơi nhỏ so với hôm qua, đầy hơn so với mảnh
trăng hơn qua. Ánh trăng ngắn và yếu, không soi tới cồn cát, những lùm
cây và con đường rải nhựa. Anh vỗ lưng lừa, bánh xe chậm lăn, trục xe
khô dầu kêu kít kít. Chú Tư có lúc bật ra một câu hát rất lưu manh rồi
đột nhiên thì ngừng bặt, khi hát không chuẩn bị, khi dừng thì cụt lủn.
Thực ra, ánh trăng vẫn chiếu tới đây, chẳng lẽ ánh trăng lấp lánh không
phải do ánh trăng sao? Những đốt sáng lấp lánh trên cánh con cuốc, không phải ánh trăng sao? Vị hăng của tỏi, không phải do ánh tăng nồng nàn mà có sao? Đầm trũng có sương mù, đồi cao có gió mát, chú Tư cất tiếng
chửi – Không hiểu chú chửi trâu hay chửi người: “Cái đồ đĩ rạc, đồ chó!
Kéo quần lên… lại đọc thánh kinh!”
Anh khóc dở khi trông thấy hai luồng ánh sáng
từ trên đỉnh dốc dọi xuống, lúc cao lúc thấp, lúc sang phải lúc sang
trái như kéo cắt vải cao su. Tiếp đó là tiếng động cơ. Cây cỏ hai bên
đường rõ mồn một. Một con báo đốm cụp đuôi lẩn vào bóng đêm. Con lừa
toát mồ hôi, Cao Dương ôm chặt lấy đầu nó, dạt xe tận mép đường. Ánh đèn biến con trâu của chú Tư nhỏ như con thỏ. Chú Tư cũng nhảy xuống xe,
nắm mũi trâu dắt cùng với xe sang vệ đường.
Ánh đèn sáng lóa, con thú lớn đen sì giương mắt chồm tới, ngay cả con báo cũng sợ bỏ chạy, huống hồ con trâu con lừa.
Chuyện xảy ra sau đó như trò đùa, như nằm mơ, như cứt ỉa.
Cao Dương còn nhờ chiếc xe như một quả núi chồm tới. Trong tiếng máy gầm gào, con trâu chú Tư, cái xe của chú Tư, ngồng tỏi của chú Tư và cả chú Tư đều bị bóng đen nuốt chửng. Anh mở mắt,
thấy một khuôn mặt béo bệu của một người đứng tuổi cười mỉm sau tấm
kính, và sau tấm kính khác, một cái miệng há hốc, răng trắng nhởn. Anh
và con lừa nằm rạp ngay sau xe, trước ống xả nóng rẫy.
Anh nhớ chiếc xe ô tô từ từ bò dậy, con trâu
của chú Tư kinh hoảng kêu lên, chú Tư ôm lấy đầu con trâu thật chặt.
Trong làn sáng trắng, cái đầu của chú Tư như nhỏ lại, biến thành cái vòi bằng đồng, bằng gang, lóe lên màu vàng màu xanh, chú Tư nheo mắt. Chú
Tư há miệng, nét mặt thất thần, sắc mặt thê thảm. Luồng sáng xuyên thấu
vành tai thỏ của chú Tư, thanh chắn của ô tô thúc vào chân chú Tư và
chân con trâu, người chú Tư nhào về phía trước và bắn tung lên, hai tay
xòe như đôi cánh, áo tả tơi như lông vũ, rơi xuống một bụi bạch lạp. Con trâu gục xuống, đầu ngoẹo sang một bên. Chiếc ô tô từ từ tiến lên, lúc
đầu đủn trâu và xe đi một đoạn, sau đó là chèn dưới bụng.
Sau đó thì thế nào? Sau đó, ông béo ngồi trong
xe nói: “Chạy mau!” Tên tài xế gầy nhom cho xe lùi, không nhúc nhích, cứ lùi, lùi được,vòng qua Cao Dương và con lừa, chạy xuống dốc. Nước văng
tung tóe, két nước vỡ.
Cao Dương ôm đầu lừa, đầu anh như mụ đi: “Thế
là thế nào? Chuyện gì đã xảy ra?” Anh sờ đầu mình, mắt mũi mồm miệng tóc tai còn đủ cả. Sờ đầu con lừa, cũng vậy, chẳng thiếu cái gì, chỉ mỗi
hai tai lạnh như băng. Anh khóc hu hu như một đứa trẻ. Dạo khúc huyền cầm, vui như mở hội
Ngợi ca Đảng anh minh!
Nghị quyết hội nghị ba dẫn đường chỉ lối,
Bà con muốn đổi đời: Trồng tỏi!
Tháng giêng năm 1987, Khấu mù hát
trong tiệc cưới Vương Minh Ngưu, con trai thứ ba nhà họ Vương. Đêm hôm
ấy tiệc mừng vui vẻ, Khấu mù quá chén say bí tỉ, ngủ như chết, ba ngày
sau mới tỉnh.
Đêm thứ hai sau khi bị bắt vào tù, thím Tư mơ
thấy chú Tư người đầy máu đứng trước giường, nói: “Bà ơi, bà ở đây sẵn
cơm sẵn nước, an nhàn thảnh thơi, không kêu oan, không báo thù cho tôi
nữa sao?” Thím Tư bảo: “Ông ơi, oan của ông không thể kêu, thù của ông
không thể báo, tui phạm tội rồi!”. Chú Tư thở dài