
hông bao giờ tháo nó ra.
Ngày hôm sau tôi nói với họ rằng tôi sắp sửa đi rồi. “Cậu sắp sửa đi về đâu vậy?” Bạch Kiến Thu hỏi tôi.
“Nhà.”
“Ở đâu?” Cậu ta biết tôi nói gì, nhưng vẫn cứ hỏi. Và tôi biết tôi chẳng nên trả lời thêm, nhưng vẫn cứ.
“Nhà.”
Cậu ta chỉ im lặng gật đầu. Tôi quay người nhìn Giả Giai, nhưng anh ta vẫn không ngừng ném bóng rổ.
Tôi đi tìm mẹ tôi ở nhà khách gần ga xe lửa. Sau buổi tối đầu tiên chúng
tôi đến Khai Phong, khi mẹ tôi ở chỗ Lý Chiêm Vũ, mẹ cứ nằng nặc chuyển
ra ở nhà khách. Khi tôi đến nơi, mẹ đang uống trà và chải tóc; trông mẹ
có vẻ rất hạnh phúc, có thể là vì mẹ biết chúng tôi về thẳng Bắc Kinh
tối hôm đó, rằng tôi không còn nằng nặc đòi ở Khai Phong cả tháng nữa,
và có thể là mẹ vui vì chuyến đi đã kết thúc mà chẳng xảy ra sự cố gì
đáng tiếc. Ai biết được? Dù lý do là gì đi nữa, nhìn mẹ vui vẻ như thế
khiến lòng tôi cũng rộn ràng theo.
Kiến Thu và Lý Chiêm Vũ còn tiễn chúng tôi ra tận sân ga và nhìn con tàu
chúng tôi rời xa. Trước khi chúng tôi đi, Lý Chiêm Vũ còn tháo dây chữ
thập ở cổ mình và đeo vào cho tôi.
Trở lại trường học.
Việc tôi vắng mặt đi chơi ở Khai Phong làm cô Vương cực kỳ không hài lòng.
Buổi tối, khi tôi đi bộ về nhà trên đường Vành Đai Ba phía tây, tôi luôn đụng phải cô, và thật khó xử. Khi việc có vẻ không dừng được nữa, tôi
đành phải viết vào nhật ký tuần cho cô mấy dòng như sau:
Có một giả thiết:
Liệu chúng ta sẽ tiếp tục hiểu và giúp đỡ nhau như những người bạn tốt, hay là sẽ chỉ nhìn nhau và im lặng?
Nếu là như trước kia, tại sao chúng ta không chọn một lúc nào và nói chuyện đó ra? Nếu là như sau này, thì em chẳng có gì để nói ngoại trừ một điều rằng em có lỗi vì một quyết định tệ hại.
Khi các cuốn nhật ký được trả lại, tôi phát hiện ra những dòng này ở phía dưới:
Em muốn nói chuyện? Cũng được thôi nếu em muốn cởi mở và nói một cách
trung thực. Tôi chẳng cảm thấy là tôi đã thất vọng cũng như tôi không
nghĩ em đã coi tôi như một người bạn thực sự. Mọi việc chỉ là có một số
chuyện em nên nói với tôi trước khi em thực hiện chúng.
Nếu em vẫn còn muốn nói chuyện, em cứ chọn thời gian.
Nhưng sự quý mến lẫn nhau mà cô Vương và tôi đều rất thích đã mất đi vĩnh
viễn; chúng tôi giờ đây tránh không làm thân với nhau nữa, chẳng giống
như mối quan hệ cô – trò bình thường của bạn.
Bốn học sinh trong lớp tôi làm thành một nhóm cùng nhau chuyển sang một
trường chuyên dạy tiếng Anh. Sau khi học xong một chương trình bảy năm,
học sinh tốt nghiệp có bằng cấp ngang với bằng đại học. Học phí ở đó nổi tiếng là rất cao. Bọn họ may thật, đã thoát ra khỏi cái trường giống
bệnh viện tâm thần này. Không một ai trong số chúng tôi lại không tin
rằng bất cứ cái trường nào cũng tốt hơn trường chúng tôi.
Bọn họ đã thoát. Còn tôi, một người muốn rời bỏ nó sớm nhất, thì trái lại, vẫn còn ngồi đây.
Đêm qua tôi có một cơn ác mộng kinh khủng.
Đại thể là tất cả đều ngập tràn những mối tình vô vọng, những mong muốn vô
vọng, cuộc chạy trốn vô vọng, những hy vọng vô vọng. Trong cơn mơ, một
người mà tôi luôn yêu quý đã đưa cho một trong những người cô còn trẻ
của tôi một lọ nước đen. “Đừng uống nó!” Tôi gào lên. “Đừng uống nó!”
Sau đó là một cuộc chạy trốn, và chạy trốn nữa, chạy như phát điên cho đến
khi tôi bừng tỉnh giấc, tôi lại run rẩy vì một nỗi sợ chết, nỗi sợ sự cô đơn lạnh lẽo, và giá lạnh, và sự thấu hiểu rằng bất kể là sống hay
chết, vạn vật đều bị điều khiển bởi một cái gì đó huyền bí và không sao
hiểu nổi.
Mấy ngày sau khi trở lại Bắc Kinh, tôi trở nên trầm lặng, không còn lúc nào cũng bô bô về Tinh Noãn nữa. Khi tôi nói, tôi bắt đầu hỏi một lô những
câu hỏi ngây ngô: Cậu có người bạn thật sự nào không? Cậu có tin vào
tình yêu không? Một vài người lắc lắc, một vài người gật gật. Khi họ hỏi tôi cùng những câu hỏi đó, tôi chẳng biết trả lời thế nào.
Như một bài hát đã nói: Hãy cởi đôi giày cao gót cô đơn của bạn và bước
chân trần đi trên từng bậc của công viên trái đất. Những giấc mơ ta mơ
không phải là Tokyo, hay Paris, hay New York. Sự cô đơn cùng ta sẽ gặp
nhau trong yên lặng và tĩnh mịch của nửa đêm…
Đó là một ngày 12 tháng sáu. Tôi nhớ được ngày bởi vì có một show diễn
mang tên “Hành động tiên phong” vào đêm đó, với sự góp mặt của nhiều ban nhạc tôi ưa thích. Nhưng tôi không có tiền cũng chẳng có thời gian đi
xem.
Vậy nên Triệu Bình, ca sĩ chính của ban W. và tôi hẹn gặp nhau tại cổng
chính của Đại Học Sư phạm Bắc Kinh. Giọng anh ta nghe khàn đặc trong
điện thọai, và cuối cùng khi chúng tôi gặp mặt, hóa ra là giọng anh ta
hợp với anh ta một cách hòan hảo, trông anh ta nhàu nhĩ và mòn mỏi, như
là anh vừa trở về từ tỉnh Tân Cương vậy. Trước khi chúng tôi gặp nhau,
anh ta đã đến Đại học Sư phạm Bắc Kinh để gặp mặt một bạn tình tiềm
năng, và tôi nghe nói rằng vào lúc mà cô ta liếc nhìn bộ dạng của anh
ta, trông như một kẻ ất ơ, cô ta đã từ chối không xuống nhà gặp. Anh
cùng đến với một anh bạn khác, người tự giới thiệu mình là Trì Lỗi. Anh
này đối lập hẳn với Triệu Bình, một anh chàng Bắ