
i, như ngóng đợi cái gì
khó đoán định. Ông cụ thường không hay dậy sớm. Đã dậy, thể nào cũng đi rẻo ra
vồng ngắm giàn trầu, cây cau, qua chuồng lợn, chuồng gà, vào cái ao trước nhà
nhìn cá nổi mặt nước, hay chỉ sủi tăm, đớp bóng mà lừa lựa thời tiết cái ngày
hôm ấy nó ra làm sao. Không khi nào thầy tôi ngủ dậy lại ngồi lì một chỗ thế
kia. Tôi bước lên thềm, vừa cất tiếng:
“Con chào thầy ạ!”, thì ông cụ hỏi ngay: “Anh ngủ đâu làm
tôi đợi cửa cả đêm?”. Ở quê bây giờ không như ngày xưa, anh ạ. Đêm hôm đi ngủ
cửa rả không che chắn cẩn thận, đến bát gạo cũng không còn, chứ đừng nói xe
pháo, áo quần. Chồng chị Vần làm ở sở thuỷ lợi tỉnh, tối thứ bảy về muộn, vợ
con đi xem nhờ ti vi bên hàng xóm. Nhà trên nhà dưới cửa đóng then cài, đành
dựng tạm chiếc xe đạp ngoài sân, chạy sang bảo vợ con đưa chìa khoá về mở cửa.
Nhoáng một cái, về đến nhà chí còn những chỗ. Vợ chồng, con cái, anh em đèn đóm
đổ xô đi tìm, sục hết bờ bụi, lội cả xuống ao chuôm mò như mò ốc cũng chẳng
thấy xe pháo đâu. Mọi lần đi đâu về muộn hoặc không ngủ nhà, tôi thường dặn
người nhà trước, để biết chừng cửa rả. Vậy mà khi ở chỗ họp chi bộ ra, tôi
không sao nhớ nổi cái việc cỏn con ấy, làm thầy tôi đợi cửa cả đêm, nên chắc
giận. Tôi nói cho qua chuyện: “Con ra ngoài lò gạch. Hôm nay họ đốt lò”. Giọng
ông cụ tỉnh khô: “Đốt lò thì bấn gì đến anh”. Thật cả đời được một lần nói dối
không xuôi. Đúng là đốt lò gạch thì bận gì đến tôi, một người chưa từng cầm cái
khuôn đóng gạch bao giờ, đừng nói đến đốt lò; hơn nữa, hợp tác có hẳn một đội
mấy chục người chuyên làm gạch, có khi nào phải điều lao động của đội khác ra làm
đâu. Tôi lúng túng rút ngăn kéo cất quyển sổ công tác, nghe thầy tôi nói:
- Anh về nhà anh Thuỵ, hai người bàn nhau nhất định khoán
ruộng chứ gì?
Biết không thể chối quanh, tôi đành đánh bài ngửa:
- Vâng ạ!
- Anh nghĩ thế nào lại cho khoán ruộng?
- Con chỉ nghĩ cứ để mọi việc đồng áng đều do tập thể làm,
thì dẫu ban đội có ba đầu sáu tay mười hai con mắt cũng không thể khắp hết
được. Bàn tay có ngón dài ngón ngắn, huống chi hàng trăm con người thể nào chả
có người lười người chăm, người khoẻ người yếu. Tránh sao khỏi suy bì, tỵ nạnh
nhau. Thế mà lại cùng làm với nhau, cùng hưởng như nhau một mức công sá, nhất
định không sao tránh khỏi người lười dựa người chăm, người khoẻ tỵ nạnh người
yếu. Đã dựa dẫm nhau thì công việc không thể làm nhanh, làm tốt được. Đã tỵ
nạnh nhau thì không thê đoàn kết, tương thân tương ái với nhau được. Bà con xóm
láng ra ngõ chạm nhau, nhưng bằng mặt mà không bằng lòng, thì đừng nói đến
chung sống hoà thuận, trên dưới đồng tâm, hiệp lực. Có chăng chỉ là giả tạo,
nguỵ biện, còn thực chất sức mạnh nội tại thì không. Thế nên, người thì đông mà
công việc cứ ì ra đấy. Như vụ gặt vừa rồi, nếu không khoán cho bà con để người
ta mẹ nào con ấy lo đưa lúa về nhà, cứ đằng thẳng như mọi vụ kéo nhau ra đồng
dăng hàng ra sặt, thì liệu có khỏi bị mưa bão ngập úng như bên Phương Trì,
Phương La!
Thầy tôi không hiểu có nghe ra, nhưng ông cụ buông chân
xuống ghế, rờ rờ đôi dép đang nằm mỗi nơi một chiếc, mà lại hướng cặp mắt hoe
hoe đỏ về tôi, hỏi:
- Anh không quên là chỉ vì cái chuyện khoán gặt ấy mà cả đội
bị phạt, còn anh thì tý nữa bị kỷ luật đấy à!
- Con không quên. Nhưng dù bị phạt hay kỷ luật, mà bà con
được no bụng, con cũng sẵn sàng chịu kỷ luật.
Trong khi tôi nói câu ấy, không hiểu sao tôi lại nhìn thẳng
vào thầy tôi. Trên khuôn mặt vuông vức với những đường nhăn hằn sâu trên trán,
trông thầy tôi đang từ đăm chiêu nghĩ ngợi, chuyển dần sang tươi tỉnh, đôi môi
dày, khô khốc, mấp máy như sắp nở nụ cười. Rồi bỗng ông cụ khà khà cười lên
thành tiếng, nghe vừa sảng khoái, lại vừa lạ lùng lắm. Tôi nghe tiếng cười ấy,
bỗng lại thấy chột dạ, không hiểu có phải ông cụ đã nghe ra, hay lại cho tôi là
cái thằng phổi bò, rởm đời, ngang ngạch khó bảo, bất chấp mọi sự, cũng chưa
biết chừng. Tính nết người già nhiều khi thật khó hiểu. Việc ở đây, có khi lại
nói mãi đẩu đâu, thâm thuý đến cay nghiệt. Ấy là tôi chột dạ nghĩ vậy, chứ ông
cụ đã lên tiếng rồi kia:
- Nếu thế thì được. Nhưng tôi chỉ sợ đến khi trên người ta
biết, anh lại như ông Lạc năm đã lâu, chối đây đẩy, đổ vấy cho tập thể: “Việc
này là do chi bộ quyết định”, thì còn gì là uy tín của chi bộ trước bàn dân
thiên hạ nữa!
Té ra, ông cụ lo bảo vệ uy tín của chi bộ. Kể cũng phải.
Nhưng chưa phải. Vì uy tín của chi bộ đâu chỉ là sự bóng bảy không có tỳ vết,
mà thực chất phải là mọi cư dân ở trong phạm vi tổ chức đảng nơi ấy đều tự giác
làm việc hết mình, để mang lại lợi ích cho mình và cộng đồng làng xã, làm sao
cho dân có bát ăn bát để, tiền tiêu dư dật, nghĩa vụ với tập thể và nhà nước
làm sòng phẳng, không dây dưa năm này qua năm khác. Chứ còn như cứ mùa màng
thất bát, dân chưa hết mùa đã hết thóc, cũng khó mà nói chi bộ có uy tín hay
không trong lòng dân. Nhưng cũng không nên trách ông cụ. Người già thường rất
hiểu sự đời, những cư xử với người này người khác trong xóm ngoài làng thật
đúng mực; nhưng th