
chi bộ bàn, nhiều người bảo làm thế là hay đấy. Mỗi nhà nhận vài
sào, bà con có thể tranh thủ làm lụng, trông nom, tốt hơn là để đội làm hết mọi
việc, nhưng lại lắm vãi không ai đóng cửa chùa như lâu nay. Ông Lạc đã một lần
bị kỷ luật, giờ cứ như gà phải cáo, hơi tý là giật mình, nói với tôi đầy giọng
thông cảm: “Chỉ ngại là ngại trên xã, trên huyện mà biết, thì lần này chú khó
tránh khỏi kỷ luật”. Chị Kha, đội phó bảo: “Làm theo cách của đồng chí Điền là
khoán cho hộ xã viên rồi. Mà khoán hộ là dứt khoát trên không cho làm đâu. Hồi
còn hợp tác nhỏ, Phương Trà ta cũng có năm khoán như thế. Sau ông Giá, bí thư
huyện uỷ, chả về bắt cả chi bộ họp kiểm điểm mấy ngày, rồi ta bị cảnh cáo toàn
huyện, các đồng chí còn nhớ không? Khoán như vậy thì thể nào lúa cũng tốt, thóc
cũng nhiều. Nhưng nếu trên mà biết thì lần này không riêng đồng chí Điền, mà có
khi cả chi uỷ, chi bộ đều bị kỷ luật, chứ không khỏi!”.
Chung quy ai cũng sợ cấp trên biết, thì việc làm dù có lợi
cho dân đến mấy cũng không khỏi bị kỷ luật. Bác Thản, một người vào Đảng từ
những năm 1950, từng bị giặc Pháp bắt dìm vào bể, uống no nước đến vọt cả cứt
đái ra bể, nhưng vẫn không khai hầm bí mật giấu Việt Minh ở chỗ nào. Bác Thản
ngẩng khuôn mặt vuông chữ điền, nước da đen sạm với nhiều vết nhăn, nhìn tôi
đầy cảm thông, chia sẻ: “Mới chỉ khoán gặt thôi mà ông Thuật đã gọi chú lên
“cảnh cáo nhẹ”. Thế mà giờ lại định giao ruộng khoán cho các hộ nữa, thì khó mà
giữ được cái đầu. Thôi, được ăn cả, ngã thiệt thân, lâu nay người ta làm thế
nào, giờ mình cứ thế làm, cho yên chuyện, chú ạ!”. Tôi nói trước cuộc họp chi
bộ tối hôm ấy: “Cứ như khoán việc tuốt lúa, gặt lúa vừa rồi, nếu ta giao ruộng
cho xã viên làm, nhiều ít bao nhiêu tuỳ khả năng từng gia đình, thì nhất định
ruộng nương, lúa má sẽ khá hơn là cứ để làm tập thể như lâu nay. Còn nếu làm mà
xã, rồi huyện biết, thì cá nhân tôi xin chịu kỷ luật. Chi bộ coi như chưa bàn
việc này”. Tôi tưởng trước thái độ cứng rắn của tôi, chi bộ có thể cho qua.
Nhưng thật không ngờ, tôi vừa nói xong thì người có ý kiến phản bác đầu tiên
lại là thầy tôi. Gần như cả buổi họp ông cụ không nói gì, chỉ ngồi hút thuốc
lào vặt. Mấy lần tôi nghe tiếng ông Lạc, rồi bác Thản, chị Luân giục: “Bác Mải
có ý kiến đi chứ. Sao cứ ngồi ngay cán tàn thế nhỉ?”, nhưng cụ vẫn không động
tĩnh gì. Vậy mà bây giờ. Tôi quay nhìn thầy tôi nét mặt đăm chiêu, tuồng như
nghĩ ngợi mung lung lắm. Giây lát, ông cụ cất giọng nhỏ nhẹ, ngập ngừng, nửa
như nói với riêng tôi, nửa như nói với cả chi bộ: “Không chỉ kỷ luật mình bí
thư đâu, cả chi bộ sẽ bị kỷ luật đấy. Danh dự của tập thể chi bộ, chứ không chỉ
một cá nhân. Nên chưa thể thông qua hôm nay được. Để lại thăm dò, nghe ngóng bà
con xem thế nào, rồi chi bộ quyết định cũng chưa muộn”. Thầy tôi là người cao
tuổi đời, nhiều tuổi đảng, không chỉ trong chi bộ này, mà cả trong đảng bộ xã.
Tiếng nói của ông cụ thường được nhiều đảng viên kính nể, nghe theo. Quả nhiên,
ông cụ nói xong thì bác Thản, chú Ban, chị Luân đều đồng ý “chưa nên quyết định
vội”. Gần hai giờ đêm cuộc họp chi bộ mới giải tán, mà không đi đến một sự nhất
trí nào. Tôi buồn bực giận lây cả thầy tôi. Ông cụ sợ mất danh dự của chi bộ,
sợ tôi bị kỷ luật, hay còn sợ những gì gì nữa. Vậy hà cớ gì mấy hôm trước tôi
lân la hỏi, ông cụ lại có vẻ dứt khoát: “Làm lợi cho hợp tác và xã viên, chứ
cho riêng mình đâu mà sợ!”.
Đêm ấy tôi không về nhà, đi với anh Thuỵ về nhà anh ấy ngủ.
Thực ra từ bấy giờ cho đến sáng, tôi với anh ấy cũng chẳng chợp mắt được lúc
nào. Anh thủ thỉ bảo tôi: “Cứ cho làm đi. Xã biết, tao che cho”. Anh Thuỵ với
ông Biền, bí thư đảng uỷ xã bấy giờ, là con bá con dì, có cất lời lên xin cho
thằng em họ là tôi, hẳn cũng không đến nỗi như người dưng nước lã. Còn tôi, cả
đời chưa một lần nhờ cậy ai, dù chỉ là một lời nói, nhưng lúc ấy cũng phải mặc
cả với anh: “Nếu xảy ra chuyện gì, anh bảo vệ tôi đến cùng nhá!”. Anh ngoặc
tay: “Tao bảo vệ đến cùng. Nhưng phải làm thật, chứ không đánh trống bỏ dùi đấy
nhá!”. Tôi với anh còn nói chuyện với nhau đến rạng sáng. Chị Thuỵ dậy lịch
kịch nấu cơm, khi cầm cái nồi, cắp rá gạo từ trong buồng ra, tôi lướt nhìn cái
rá chị cắp ở nách chỉ thấy đám gạo dính đáy rá. Nhà còn bà mẹ đẻ ra anh Thuỵ,
lại hai vợ chồng và năm đứa con, là tám miệng ăn, chỉ nấu ngần kia gạo sao đủ
mỗi người vực bát. Thế mà khi tôi ra về, qua cửa bếp ngó vào chào: “Chị nấu
cơm, em về đây!”, vợ anh Thuỵ vội đè cái que dẽ lên chỗ rạ đang cháy trong bếp,
đứng dậy, rảo bước ra cửa: “ơ, chị nấu cả cơm chú rồi đây. Ở lại ăn cơm, anh em
có bàn gì với nhau thì bàn cho xong đi”. Chắc cả đêm chị cũng không ngủ, câu
chuyện giữa tôi với anh hồi đêm đã lọt hết vào tai chị rồi. Đã thế, hẳn chị
cũng biết tôi với anh ngoặc tay nhau là coi như xong, còn bàn gì nữa. “Thôi em
về, chị nhé”.
Khi tôi mới về đến rặng tre đầu ngõ đã nghe tiếng thầy tôi
ho khùng khục. Nhìn vào sân một vệt sáng đèn dầu từ trong nhà hắt ra. Thầy tôi
ngồi bó gối trên ghế, mặt sây ra ngoài sân như ngẫm ngợ