
ng
quân bèn lệnh cho ba quân vào trong làng, ra ngoài chợ có ai bán gà dò, gà
trống đều mua hết về tế thần. Sau khi tế, nhất thiết tiết gà phải pha với rượu
chia đều cho ba quân mỗi người uống một hớp để tỏ sự đồng lòng, đồng sức, đồng
tâm trước thổ thần thổ địa. Sau lễ ăn thề, ba quân xuất kích nhằm hướng cửa Đại
Bàng dăng thế trận. Lần ấy, Vị tướng nhà Lý thắng lớn trên cửa Đại Bàng. Tướng
quân lại đưa binh sĩ trở về hội quân trên khu đất đầu làng Phương Trà, mở hội
khao quân, trọng thưởng mọi người, kể cả dân lành có công cơm nước cho ba quân
những ngày đồn trú ở làng. Từ ấy, uống rượu ăn thề trở thành tục lệ đời này
truyền đời khác của người làng Phương Trà, mỗi khi bước vào làm một công việc
gì lớn lao, ý nghĩa, cần sự đồng tâm, hiệp lực của tất cả mọi người. Tục lệ tốt
đẹp là thế, tồn tại đã từ bao nhiêu năm, kể cả những năm kháng chiến chống Pháp
đảng viên, du kích cũng vẫn tổ chức ăn thề mỗi khi địch o ép gắt gao, thế mà
chẳng hiểu sao hồi cải cách ruộng đất lại tự nhiên cấm ngặt. Thế nên từ ấy, lớp
các anh mới hiểu tục ăn thề khác đi, chứ đâu phải ăn thề là một việc làm mê tín
dị đoan mà bảo “lạc hậu!”.
Tôi sinh ra ở làng, lớn lên cũng từ nhà tranh, mái rạ, luỹ
tre làng. Tuy có đi xa, vào tận Quảng Nam, Đà Nẵng, nhưng tất cả mới ngót chục
năm, từ giữa năm sáu bảy đến cuối bảy nhăm xuất ngũ về địa phương, lại bám chóp
cày, nhìn đít trâu như bất cứ người đàn ông nào ở làng. Vậy mà giờ nghe thầy
tôi nói mới biết làng mình còn có một tục lệ đẹp đến thế, sao bấy nhiêu năm lại
bị lãng quên, hay người ta cố tình bỏ quên(ị?).
Tối hôm ấy, để mọi việc diễn ra suôn sẻ, chuẩn bị chu đáo,
nhưng không ồn ào, tôi hội ý chi uỷ mời toàn thể đảng viên trong chi bộ đến họp
ở nhà tôi. Chuyện khoán chui hôm trước chi bộ bàn dở, hôm sau đã loang ra cả
xóm trong, ngõ ngoài, đầu làng chí cuối đều biết. Thế nên, cuộc họp chi bộ tối
hôm ấy, bất chấp cả quy định “bí mật”, “nội bộ”, không biết từ cửa miệng người
nào, đảng viên hay xã viên nói ra, mà bà con kéo đến nhà tôi còn sớm hơn cả mấy
đảng viên con thơ cái quấn. Nhung cũng lạ, không biết họ dặn dò nhau những gì
mà tôi, anh Thuỵ, chị Luân, rồi cả thầy tôi nữa, nói thế nào bà con cũng không
vào trong nhà ngồi, chỉ một mực: “Chúng tôi ngồi ngoài này cũng nghe rõ”. Cái
sân nhà tôi rộng thế mà tối ấy bà con ngồi gần kín, đủ biết những người xã viên
ấy khao khát được cấy trồng trên mảnh đất mình được quyền sử dụng đến mức nào.
Không riêng tôi nhìn bà con đến nghe dự thính cuộc họp chi bộ lòng thấy xốn
xang vô cùng, mà ngay bác Lạc, một người có lúc từng coi những người kia như
rơm như rác, tự mình cho thanh lý tài sản, bán cả ao làng không cần hỏi ai, giờ
đang tự tay buộc chiếc đèn soi cá vừa chạy về nhà lấy đến, thấy tôi đi qua liền
gọi giật lại bảo: “Bà con bức xúc lắm rồi. Ta họp quyết định ngay đi, anh ạ!”.
Lúc sắp vào họp, anh Túc như có ý đại diện cho những quần chúng có mặt ở đấy,
cất lời: “Bà con chúng tôi đến thế này cũng là không phải. Nhưng vì biết chi bộ
họp bàn khoán ruộng, nên chúng tôi chỉ xin đến nghe nhờ thôi ạ”. Thực ra, trước
ngày họp, chi uỷ chúng tôi đã phân công nhau đến từng nhà thăm dò, phần đông bà
con đều muốn khoán. Điều ấy tất cả hai mươi bảy đảng viên trong chi bộ Phương
Trà đều biết. Họ cũng biết thầy tôi, người có tiếng nói nhiều khi rất quan trọng
trong cuộc họp, cũng tán thành cách làm ấy rồi, nên khi vấn đề được đưa ra thảo
luận thì chi bộ nhất trí rất nhanh. Thực ra vấn đề đã chín muồi quá rồi, chỉ có
điều đã thành chủ trương hay chưa thôi. Biên bản cuộc họp chi bộ quyết định
giao khoán một số diện tích cấy lúa cho người lao động được thông qua, với trăm
phần trăm đảng viên có mặt tán thành. Tôi vừa nói trăm phần trăm đảng viên có
mặt, là vì chi bộ có hai mươi bảy đảng viên, nhưng tối ấy còn ba đồng chí không
đến họp, cũng không thấy báo cáo lý do vắng mặt. Sau này, khi cấp trên biết và
triệu cả chi bộ lên đảng uỷ họp kiểm điểm suốt hai ngày, mới lòi ra chính ba
đồng chí vắng mặt họp chi bộ hôm ấy có ý kiến trái ngược, nhưng không hiểu sao
không thẳng thắn bày tỏ chính kiến của mình trước chi bộ, mà lại lánh mặt, rồi
ngầm báo cáo lên cấp trên. Còn nội dung quyết định của chi bộ mà tôi vừa nói,
có một điểm khi ấy tôi, chị Luân và bác Lạc phải bàn bạc mãi, rồi mới ghi vào:
“giao khoán một số diện tích cấy lúa cho người lao động”. Cũng đã lường trước, nếu
cấp trên biết thì với cách lập luận chúng tôi chỉ khoán một số diện tích cấy
lúa có tính thí điểm, và cũng chỉ giao cho người lao động thôi, chứ có mang
toàn bộ ruộng đất giao cho xã viên hoặc hộ xã viên đâu, mà sợ đi chệch đường
lối hợp tác hoá nông nghiệp. Quá thật, sau này với cái “lý sự cùn” ấy, nói như
ông Trường phê phán tôi trong cuộc họp kiểm điểm ở huyện uy, cũng được trên
giảm nhẹ cho tý khuyết điểm; chứ không, bây giờ tôi khó mà nói chắc còn đứng
trong hàng ngũ của Đảng nữa hay không.
Khi biên bản họp chi bộ thông qua xong, tôi thấy thầy tôi
nháy bác Lạc, rồi cả hai đứng dậy ra ngoài. Chỉ giây lát, tôi bỗng giật mình,