
tuần. Tôi chi biết mình ngủ say lắm, say đến mức nghe láng máng như có người gọi đúng tên mình, lại không phải là mình, nhưng rồi vẫn ú ở như là thưa, như là nói với ai câu gì đấy, lại chẳng nói gì cả. Mãi đến khi có ai đó vào lay lay đầu tôi, hỏi: “Có xúc thóc vào, hay để ngoài sân mai phơi luôn, hả anh Điền ơi?”. Bấy giờ, tôi mới choàng dậy, mở bừng mắt, không còn biết mình tỉnh hay mơ. Mới chập tối đống lúa còn cao là thế, giờ đã không còn một lượm. Hai chiếc đèn soi cá của nhà ai mang ra, hắt ánh sáng vàng xuộm xuống cái sân đầy thóc. Khi mọi người cầm đèn lục tục ra về, tôi vẫn còn như mơ ngủ.
Mọi khi đống lúa ấy, gì chứ hai chục người tuốt đập, giũ rơm, cào rờm, ang thóc cả ngày là cái chắc. Có khi kẻng tan buổi làm, đống lúa chỉ còn mươi gánh người ta cũng đóng máy nghỉ, buổi sau làm tiếp, chứ chẳng tội gì lại cố tý nữa cho xong. Nhưng tối nay chỉ chừng năm tiếng đồng hồ đã xong. Máy lại không ục ặc một tý nào. Mà sao mọi ngày máy hay ục ặc thế, nào tuột xích, ật bi, sang bánh đà, có hôm đang chạy máy khựng lại, tưởng làm sao, vội gọi thợ đến tháo tung ra, thì chỉ là hết dầu. Thôi thôi, khéo không đêm tối các bố, các mẹ tuốt cho nhanh cho chóng rồi về, chứ làm sao lại nhanh thế được cơ chứ. Tôi hốt hoảng đến góc sân ngổn ngang những lượm rơm vừa tuốt xong, vơ vội một nắm lên sờ sờ nắn nắn từng bông, rồi lại từ ngang cây lên tận chúp cây rơm. Tuyệt nhiên không thấy một hạt, một gié thóc nào còn sót lại ong rơm. Tôi vất nắm rơm ấy xuống, rồi lại đầu kia vơ một nắm khác lên. vẫn như lần ước, sờ sờ nắn nắn từng bông, từng gié lúa. Không thấy một bông, một hạt thóc nào còn sót lại. Nhưng để chắc chắn, tôi vẫn sục tay vào đống rơm vơ một nắm ôm vào trong nhà, gọi ông Lạc dậy. Ngọn đèn soi cá được thắp lên. Tôi và ông mỗi người cầm một nắm rơm soi ra ánh đèn. Lượm nào lượm ấy chỉ còn ơ ra những thân cây tướp hết lá. Ông Lạc, với giọng tùng ải, bảo: “Cái giống tuốt lúa bằng máy, lăn giở đều tay, đến hạt lép cũng phải rụng, chứ đừng nói hạt chắc. Tuốt máy hơn đập tay là thế, chứ không chỉ nhanh thôi đâu, chú ạ”. Nhưng bao nhiêu vụ nay đã tuốt lúa bằng máy mà có nhanh đâu. Vụ nào lúa gặt ngoài đồng về cũng phải ủ ên sân kho qua đêm, chứ không hôm nào tuốt ngay được hôm ấy, là lẽ làm sao?
Đêm ấy, tôi không sao ngủ được. Cái câu hỏi kia cứ như ma chơi quay đảo ong đầu. Rõ ràng chỉ mấy tiếng đồng hồ buổi tối, họ đã làm nhanh gọn cả sân lúa, mà nếu để đến mai, vẫn những con người ấy, làm cả ngày chưa chắc đã xong. Cái gì tạo ra sự cách biệt ong cách làm việc của chính những con người ấy. Con người ta kể cũng lạ, ở chỗ nào lâu, làm việc gì nhiều, thường tự cho mình am hiểu kỹ về nơi ấy, việc ấy, khi làm cứ thế làm, được hỏng không cần đúc rút nguyên nhân. Đấy cũng là một thói quen tệ hại, một cách giẫm chân tại chỗ, chứ chẳng phải là sự từng ải, dầy dạn gì đâu. Tôi không thích làm theo thói quen, lặp đi lặp lại dễ thành nhàm chán, nhưng tôi muốn tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến hệ quả. Nên cứ ằn ọc nghĩ ngợi cả đêm. Gần sáng tôi lay ông Lạc dậy. Tay vừa dụi mắt, ông vừa hỏi giọng rất tỉnh, như cũng cả đêm không ngủ: “Đội ưởng không ngủ được, chắc muốn uống à, để tôi đi đun siêu nước nhá”. Tôi bảo: “Không cần bác ạ, nước ong tích kia vẫn còn. Cháu thấy bác cứ ằn ọc thì gọi bác dậy nói chuyện cho vui thôi”. Ông Lạc nhìn tôi, hỏi: “Anh biết tôi ằn ọc là do cái gì không?”. Tôi bảo: “Dạ, cháu làm sao biết được ong đầu bác nghĩ gì!”. Ông Lạc cười: “Thế mà anh biết đấy!”. Ông chủ nhiệm hợp tác xã nhỏ nửa làng ong, như cách người làng tôi đến nay vẫn gọi thế, là ai cũng hiểu nói đến thời nào rồi. Ông chủ nhiệm hợp tác xã nhỏ nửa làng ong dường như vẫn còn cái máu của người đứng mũi chịu sào, dù việc to việc nhỏ vẫn để mắt tới, chứ không vì cái chức quyền đã tuột khỏi tay rồi thì cũng buông xuôi luôn. Tôi cười, nhìn ông Lạc hỏi theo kiểu người ta đánh bài ngửa: “Vậy thì bác nói xem, bác biết cái gì cháu nghĩ ong đầu? Rồi cháu sẽ nói vì sao bác ằn ọc khó ngủ”. Ông Lạc móc chiếc bật lửa ong túi áo, bật lửa, châm vào ngọn đèn hoa kỳ nhỏ như hạt đỗ xanh, rồi quay ra tắt cây đèn soi cá eo ngoài hiên. ời tháng năm, hừng đông đã rực một màu đỏ ối. Ông Lạc quay vào, ngồi xuống chiếc bàn uống nước đặt bên chỗ nằm, bảo: “ời này chỉ một hai ngày nữa là mưa lụt đấy, anh ạ. Muốn gặt nhanh gọn thì cứ phải cho khoán như tuốt lúa tối qua thôi. Đã khoán tuốt được thì sao không cho khoán gặt?”. Thì ra, điều làm ông mất ngủ cũng là điều tôi nghĩ mung lung cả đêm. Nhưng với một người từng lo toan công việc xóm làng bao năm ời, ông Lạc có phần còn nghĩ xa hơn tôi tưởng. Tôi vội hỏi: “Sao bác lại nghĩ đến việc cho khoán gặt?”. Ồng Lạc nói như từ lâu đã nung nấu lắm: “Khoán tuốt lúa ong sân, khoán gặt ngoài đồng, hay gì gì chăng nữa, cái chính vẫn là người ta phải thực lòng, phải tự giác mới được. Chứ cứ bắt phải thế này, phải thế kia, nhưng người ta không thực lòng, không tự giác, thì một cán bộ, chứ đến mười cán bộ cũng chả có sức đâu theo xã viên mà thúc như thúc tà được mãi”. Được lời như cởi tấm lòng, tôi quay sang nói với ông: “Bác ủng hộ ch