
iên trì và cương quyết. Không nhờ
Thạch Điền đại hiệp thì xóm tiều đã tan nát rồi mà cả vùng cũng không
được thịnh vượng như thế này.
Rồi vị cư sĩ tóm tắt công trình của Thạch Đạt Lang kể cho Điền Xán Quang nghe.
Sau khi đánh tan bọn sơn quỷ, Thạch Đạt Lang tổ chức dân lành thành đoàn đội, đào hào, đắp lũy để tự vệ. Ngay năm ấy, dân làng còn phải chống
chọi với hai bọn cướp khác nữa. Chết mất hai thanh niên, bị thương sáu
người nhưng từ bấy giờ không tên cường khấu nào dám bén mảng tới xóm
nữa. Nhưng đấy không phải là thành quả chính.
Điều quan trọng là Thạch Đạt Lang đã gây cho dân làng lòng tự tin ở sức
mình để tự cường và tự túc. Chính Thạch Đạt Lang đã hô hào mọi người kết đoàn gom sức đắp bờ, be suối để phòng lụt và dẫn nước vào ruộng cho nên mới được như ngày nay. Năm đầu thu hoạch được một số kê, bắp khá; măn
sau số thu hoạch tăng gấp đôi. Dân xóm mừng rỡ mở hội, mang đến tặng
Thạch Đạt Lang mười hũ rượu, ngũ cốc và dê, gà nhưng Thạch Đạt Lang
không nhận, tặng lại dân làng để dùng vào bữa tiệc. Chưa bao giờ xóm
tiều lại có những ngày vui như thế.
- Họ cử lão tới tạ Ơn Thạch đại hiệp. Đại hiệp có nói sự thành công này
do tinh thần kết đoàn và lòng quyết tâm của dân xóm chứ ông không có
công gì, lại tặng lại dân xóm pho tượng Quan Thế Âm do ông điêu khắc
những khi nhàn rỗi.
Mấy hôm sau, lão lại đến cùng với một số chức sắc, chủ ý rước đại hiệp
tới ở hẳn trong xóm tại một căn nhà đã được thu xếp tươm tất trước,
nhưng đến nơi thì Thạch đại hiệp đã đi rồi. Căn lều bỏ trống.
Mất mấy hôm dân chúng buồn rầu chẳng thiết làm ăn gì cả. Lão phải giải
thích, khuyên họ chớ nên sao nhãng công việc thường nhật vì như thế trái với lời dặn của Thạch đại hiệp. Họ có lập căn miếu nhỏ, đặt pho tượng
Quan Thế Âm trong đó và ngày hai lần, lúc đi làm cũng như lúc trở về,
đến khấu đầu làm lễ tỏ lòng nhớ ơn ân nhân.
Nghe xong, Điền Xán Quang mơ màng nhìn ra xa. Ông mường tượng bóng người hiệp sĩ chưa hề quen biết, lòng ngẩn ngơ hối tiếc:
“Ta đã không tròn bổn phận với chủ soái. Biết bao giờ mới lại gặp được
một người như thế ?” oo Hữu ngạn sông Sumida, trên ngã ba đường liên
tỉnh dẫn đến Tân đô, người ta mới dựng một trạm canh thật lớn. Cổng cao, hai cánh bằng gỗ kiên cố chắn ngang đường, lính biên phòng ngày đêm
thay nhau canh giữ và tuần tiễu suốt từ bờ sông đến chân núi.
Thạch Đạt Lang cùng đồ đệ đứng trong hàng chờ lính tuần kiểm soát. Ba
năm trước, hắn cũng đã ghé qua đây, không gặp điều gì khó khăn nhưng
tình thế mỗi ngày một tồi tệ hơn. Nhà cửa dựng thêm nhiều nhưng cái
không khí thanh bình bây giờ không còn nữa.
- Anh kia ! Đến lượt anh ! Bước lại đây !
Thạch Đạt Lang tiến lại, giơ cao hai tay cho hai người lính tuần lực lưỡng, mặc quần da đi dép cỏ, lục soát.
- Vào thành làm gì ?
- Chẳng có chủ đích gì nhất định.
- Không có chủ đích gì ? Ngươi định nói đùa chăng ?
- Ô hay ! Thì ta là kẻ giang hồ nay đây mai đó, đến hay đi làm gì có chủ đích !
- Nói láo. Ai làm gì mà không có chủ đích. Hay là kẻ gian đấy ?
- Nếu vậy cứ cho là ta vào thành để cầu học cũng được.
Người lính lặng thinh, giở một quyển sổ lớn ra rồi vừa hỏi vừa ghi chép:
- Tên gì ? Bao nhiêu tuổi ? Sinh quán ở đâu ?
- Thạch Đạt Lang, hăm chín tuổi, sinh quán làng Miyamoto, tỉnh Mimasaka.
- Sư phụ là ai ?
- Không có sư phụ.
- Ai cho tiền ngươi đi đây đó ?
- Ta ăn nhờ ngủ đậu tại các đền chùa, đôi khi bạn bè giúp đỡ chút đỉnh. Cũng có lúc trồng trọt sinh nhai.
Ngẫm nghĩ một lát, người lính lại hỏi:
- Đến thành ở nhà ai ?
- Chưa biết. Chưa có địa chỉ nhất định.
- Vào thành phải khai chỗ trú ngụ. Không chỗ trú ngụ không được vào.
Thạch Đạt Lang nghĩ nếu cứ khai thật thì không bao giờ xong cuộc tra vấn cù nhầy này. Bèn nói đại:
- Ta ngụ Ở dinh Trúc Mộ đại nhân, trong phủ.
Trúc Mộ đại nhân chẳng ai khác, chính là Trúc Mộ Trung, trưởng nam Trúc
Mộ Chính, một kiếm sĩ danh tiếng vùng Nara, nay đã lui về ở ẩn tại Trúc
Lâm cốc. Ngưỡng mộ tài học và kiếm thuật nhà Trúc Mộ, lãnh chúa Tôn Điền Tùng Cương cử Trúc Mộ Trung vào giữ chức trung quân tham vấn trưởng và
khi đặt bản doanh mới tại Tân đô, lại dành riêng một khu để làm tư dinh
cho Trúc Mộ.
Để tránh một cuộc tra xét kéo dài, bất đắc dĩ Thạch Đạt Lang phải quyền
biến nhắc đến tên Trúc Mộ Trung, hy vọng vị này biết đến hắn qua sự giới thiệu của thiền sư Đại Quán hoặc của chính Tôn Điền.
Quả nhiên khi nghe danh Trúc Mộ, người lính há hốc mồm. Tính danh đó hầu như có ma lực làm người lính sợ hãi. Gã đổi giọng lễ phép:
- Sao đại hiệp không nói trước ? Nếu biết đại hiệp có liên hệ với Trúc Mộ đại nhân, kẻ nô tài này đâu dám xét hỏi.
Người lính kia cũng đỡ lời:
- Bây giờ gian tế trà trộn trong dân chúng nhiều không kể xiết. Lệnh
trên ban xuống là phải xét hỏi kỹ những kẻ giang hồ, xin đại hiệp bỏ qua cho.
Thạch Đạt Lang mỉm cười gật đầu cám ơn rồi ung dung dắt tay đồ đệ qua cổng hướng về phía bến đò. Hạo Nhiên hỏi:
- Sao họ đặc biệt khám xét kỹ những kiếm khách như chúng ta vậy thầy ?
- Họ sợ gian tế.
- Ngốc quá ! Gian tế dại gì ăn mặc như kiếm khách. C