
ang vẫn còn áy náy.
Cuộc sống phiêu bồng đưa đẩy hắn đến bình nguyên Hotengahara, nơi đây
năm trăm năm trước, Nasakado đã khởi loạn. Bình nguyên này cho đến ngày
nay vẫn thế :
một vùng hoang vu đầy lau thưa với cỏ dại. Đây đó, vài gốc sồi ngả
nghiêng bên những thân cây mục nát đổ dài trên đất sỏi như xác những kẻ
chiến bại bị đốn ngã từ nhiều thế kỷ trước.
Mặt trời xế về tây. Ráng chiều nhuộm hồng mặt nước đầm cỏ lác gần đó
khiến bóng những ngọn cói đen, cao, rõ rệt như cắt trên nền nước sáng.
Nhìn quanh không hy vọng gì có chỗ trú ngụ qua đêm, Thạch Đạt Lang ngồi
nghỉ chân bên một gốc cây mục. Hắn cảm thấy mệt mỏi. Sau trận bão vừa
qua trên đồi Tochigi, khí trời ẩm thấp lùa vào lần áo trong làm hắn rùng mình ớn lạnh. Đã mấy hôm nay chỉ ăn hạt giẻ với rễ cây, hắn ao ước một
bếp lửa ấm, một bát cháo nóng hay một thứ gì ăn cho chắc bụng.
Cơn gió thoảng mang đến vị mằn mặn của muối. Tiếng ếch kêu lúc xa lúc gần.
Thạch Đạt Lang đoán chừng sắp hết bình nguyên. Cứ đi nữa chắc sẽ ra bờ
biển, có thể gặp xóm chài nào đó xin tá túc. Nếu không lại phải ngủ qua
một đêm ngoài trời nữa.
Những lúc khác, có lẽ Thạch Đạt Lang đã tận hưởng cái thú được một mình
trong cảnh tịch mịch như thế này. Nhưng sau nhiều ngày thiếu thốn, hắn
chỉ thấy một cảm giác đau thương đến buốt nhói trong lòng và muốn xua
đuổi cái cảm giác ấy đi. Trớ trêu thay, tiếng muỗi vo ve cùng những
tiếng côn trùng ri rỉ xung quanh lại như đồng lòng lôi kéo, bao vây hắn
trong niềm cô quạnh mà hắn không sao dứt ra được.
Thạch Đạt Lang đứng lên men theo con lạch nhỏ. Đến bờ đầm, bỗng nghe bì
bõm trong đám cỏ lác, rõ là tiếng chân người hoặc tiếng rái cá bắt mồi.
Đầm này sâu, mặt nước cao, chắc rái cá tụ vào đây không phải là ít !
Trong bóng tối chập choạng, hắn mở to mắt nhìn. Quả có bóng người đang
lúi húi. Trông kỹ thì ra một đứa trẻ.
Thấy động, thằng bé ngẩng lên. Nó cũng chẳng khác gì con rái cá, quần áo đầy bùn đất nhưng hai mắt long lanh, đen, tròn nhìn Thạch Đạt Lang dò
xét.
Mừng được gặp đồng chủng, Thạch Đạt Lang cười vui vẻ:
- Chú bé làm gì đó ?
- Bắt cá !
Thằng bé đáp gọn lỏn, đồng thời giơ cho hắn xem chiếc rổ tre đựng chừng
chục con cá to bằng ba ngón tay, vẩy trắng bạc đang quẫy lẫn trong những cọng rong và lá cỏ phủ trên mặt.
- Nhiều cá nhỉ !
Thằng bé lắc đầu:
- Cũng chẳng nhiều. Bắt từ trưa đến giờ mới được chừng ấy. Mùa thu rồi, cá trốn xuống bùn hết.
- Bán cho ta được không ?
- Bán chỗ cá này ấy à ?
- Ừ, cho ta mua, ta sẽ trả tiền.
- Không được. Cá này tôi bắt về cho cha tôi.
Dứt lời nó ôm rổ cá nhảy lên bờ. Một loáng đã mất dạng trong đám cỏ tranh cao bằng đầu người, không để lại dấu vết.
- Thằng này nhanh nhẹn quá !
Thạch Đạt Lang bất giác hồi tưởng lại những kỷ niệm cũ thuở thiếu thời
và nghĩ đến Giang, đứa học trò nhỏ bây giờ chẳng biết trôi giạt nơi đâu. Lần cuối gặp Giang ở trấn Kiso, gần biên giới tỉnh, bấy giờ nó mới mười lăm. “Nay chắc đã lớn, gần mười bảy tuổi rồi còn gì ! Tội nghiệp ! Nó
gọi mình là sư phụ, tôn kính phục thị mình mà mình đã làm được gì cho nó đâu !”.
Nhớ đến những lúc đi với Giang và Oa Tử, hắn phiền muộn khôn cùng, tự
trách mình đã không làm tròn bổn phận bảo vệ hai người trong cơn hoạn
nạn. Trăng lên từ bao giờ hắn không biết. Mãi khi nhìn thấy bóng mình
kéo dài trên nền cỏ ướt sương, hắn mới sực tỉnh. Vầng trăng đầy, tròn
vành vạnh tỏa ánh sáng lung linh lên cánh đồng mênh mông càng làm tăng
nỗi hiu quạnh trong lòng hắn. Nhớ lại những đêm trăng sáng như đêm nay,
Oa Tử thường mang sáo ra thổi. Qua nhạc dế nỉ non, Thạch Đạt Lang nghe
văng vẳng tiếng sáo của Oa Tử xen lẫn với những tiếng cười trong như
thủy tinh của nàng và Giang. Thạch Đạt Lang lẳng lặng đi như kẻ mộng du. Vầng trăng chênh chếch ngang vai, biểu tượng mối tình son sắt của nàng, theo hắn từng bước, trung thành và im lặng.
Đi như thế chẳng biết bao lâu, bỗng xa xa thấy thấp thoáng có ánh đèn.
Mừng được chỗ nghỉ chân và biết đâu chẳng có cái gì ăn lót dạ, Thạch Đạt Lang rảo bước về phía ấy.
Nhưng đến nơi, căn lều gỗ trơ trọi đen ngòm sau rặng lau cao khiến hắn e ngại.
Cửa đã đóng kín. Một tiếng ngựa hí vang. Hắn giật mình nắm đốc kiếm.
- Ai đó ?
Hắn nhận ngay ra giọng thằng bé bắt cá hồi chiều.
- Ta là khách lỡ đường, muốn ngủ nhờ một đêm, sáng mai đi sớm.
Tấm ván cũ dùng làm cửa được kéo sang bên, đứa trẻ thò đầu ra dò xét.
- À ! Ông khách !
Đoạn bước hẳn ra ngoài, nhìn Thạch Đạt Lang một lúc, nó nói:
- Được, mời ông vào.
Căn lều đổ nát quá đỗi. Mái tranh nhiều lỗ hổng, ánh trăng xuyên qua vẽ
lên vách lá những vệt sáng tròn loang lổ. Cuối lều sát với một căn
phòng, tạm gọi là phòng vì được ngăn ra bằng mấy tấm ván cũ, là một chỗ
lõm xuống dùng làm bếp. Trong bếp than, sậy đã tàn nhưng mùi khét của
những thân sậy chưa cháy hết vẫn còn phảng phất.
Đứa bé khêu to ngọn đèn dầu thông đặt trên bệ đất, mời Thạch Đạt Lang
ngồi vào chiếc chiếu độc nhất trải trên nền nhà rồi quỳ xuống trước mặt
hắn, trang trọng nói:
- Xin tha lỗi, nhà nghèo không có gì đãi khách. Lúc nãy ở ngoài đầm, ôn