
ói:
- Thí chủ từ đâu đến ? Ngây thơ thế đáng lẽ chẳng nên đi một mình mới
phải. Thí chủ tưởng rằng tụi đó đi tìm người cho thí chủ đấy hẳn ? Nếu
trả tiền trước rồi thì ôi thôi... coi như nước lã ra sông, đừng hòng
nhìn lại nữa !
- Vậy ra lão cho rằng chúng đóng trò để lừa tiền mỗ chăng ?
Người mã phu tỏ vẻ thương hại:
- Đúng thế ! Chúng bày kế cướp tiền của thí chủ rồi ! Lão mới về nhưng
nghe nói trên đường đi, có chục tên du đáng họp nhau ở bên kia đồi đánh
bạc, uống rượu. Hẳn chúng nó chứ không ai. Những vụ lừa đảo như thế bây
giờ xẩy ra như cơm bữa. Tệ thật !
Rồi lão thuận miệng kể vài vụ cũng khách thương bị côn đồ gạt vào bẫy, lấy nhẵn cả tiền và hàng hóa, rồi kết luận:
- Ối dào ! Đời bấy giờ ấy mà ...Từ nay thí chủ nên cẩn thận !
Nói xong, gánh đôi thùng không xuống đồi múc nước, để Thạch Đạt Lang
đứng một mình, sượng sùng với lời khuyên, trong bóng chiều bắt đầu buông dày đặc.
Thạch Đạt Lang vừa tức vừa buồn cười, tự trách mình quá khờ khạo. “Ta tự hào không sơ hở để địch thủ đâm hông được mà lại bị một bọn dốt nát lừa gạt. Thật không khác gì bị cái tát. Vậy mà mơ những chuyện cao xa, chỉ
huy binh đội, lãnh đạo chiến tranh thì làm thế nào được !”.
Trèo những bậc đá lên chùa, hắn tự nhủ thầm sẽ thận trọng hơn trong sự
tiếp xúc với xã hội bên ngoài. Đến tam quan, bỗng thấy một trong những
người thợ ban sáng đang đứng đợi.
- À ! Khách quan đây rồi ! Làm nô tài chờ mãi !
Thạch Đạt Lang cau mặt, nhưng cũng hỏi:
- Có tin gì không ?
- Có ! Có tin một trong hai người !
- Ai ! Thiếu nữ hay tiểu đồng ?
- Tiểu đồng ! Nhỏ đó với một người đứng tuổi tên Đại Cổ ở Narai đi về
phía đèo Hòa Đa. Không thấy tận mắt nhưng nô tài đã cất công đến tận
Seba mới được tin đấy !
Bọn kia đã ai về báo tin cho khách quan biết chưa ?
- Chưa. Nhưng ta chắc chúng lừa ta, lấy tiền đi đánh bạc chứ tìm cái gì !
Người thợ gật gù:
- Thường thì như vậy, nhưng nô tài thì không. Thấy khách quan đứng đắn, nô tài cố giúp.
Hơi ngượng vì đã có ý vơ đũa cả nắm, Thạch Đạt Lang nói chữa:
- Cám ơn chú đã cho tin.
Rồi móc số bạc vụn ra. Hắn ước tính số bạc chỉ đủ để trả tiền bữa cơm
tối nên ngần ngừ một lát. Nhưng lại nghĩ lòng thành thật không thể không được tưởng thưởng, bèn dốc cả số bạc vụn vào tay người thợ. Biết đâu
chẳng vì thế mà những ngày sắp tới gã chẳng giúp thêm được vài người
nữa, tin rằng người thật thà sẽ được đền đáp xứng đáng ?
Người thợ được tiền, mừng rỡ nâng ngang mày tỏ ý cảm ơn rồi tất tả quay gót.
Trời tối hẳn. Bóng đêm lẫn với bóng núi mờ mờ, vài đốm sao mới xuất hiện nhấp nháy. Tiết trời mát mẻ và trong người dễ chịu, Thạch Đạt Lang
quyết định đi đêm đến đèo Hòa Đa, hy vọng sẽ gặp Đại Cổ và Giang ở đó
vào buổi sớm. Hắn dời chùa Thạch Phật, và một lần nữa lại được hưởng cái thú đi đêm một mình trên con đường vắng. Hắn cảm thấy khoan khoái vô
cùng, được nghe chính bước chân mình rào rạo trên sỏi đá, lắng nghe cái
yên lặng của đất trời rất sinh động chung quanh, quên hết cả để tận
hưởng sự hiện hữu của chính mình. Giữa đám đông ồn ào và vội vã trong
các thị trấn, Thạch Đạt Lang đôi khi cảm thấy buồn và cô độc, nhưng
trong cảnh tịch mịch của đêm khuya, không bao giờ hắn thấy đơn côi hay
bị ruồng bỏ. Trái lại, tâm hồn hắn dễ rung động, tinh thần linh mẫn và ý tưởng cũng khoáng đạt hơn. Óc và tâm hắn có lúc như rời hẳn nhau, giúp
hắn có cái nhìn rất lạnh lùng và khách quan để tự xét.
Qúa nửa đêm, Thạch Đạt Lang trông thấy ánh lửa đằng xa. Từ khi qua khỏi
cầu Ochi, đường dốc dần. Thạch Đạt Lang đoán có lẽ sắp tới chân đèo. Ánh lửa có thể do tiều phu trong rừng đốt sưởi ấm hoặc của một quán ven
đường nào còn mở cửa.
Nghĩ đến quán, Thạch Đạt Lang sực nhớ chưa ăn cơm chiều và tự nhiên bụng hắn cồn cào sôi sục. Từ khi dời trấn Shimosuwa, lần đầu tiên hắn thấy
đói.
Đến nơi, quả nhiên là một cái quán ven đường. Bên ngoài trống bốn cây
cột để buộc ngựa nhưng không có ngựa. Tuy nhiên có tiếng lè nhè từ trong quán vọng ra lẫn với tiếng củi cháy nổ lách tách. Thạch Đạt Lang đứng
trước hiên, do dự. Nếu là một căn lều của nông dân hay tiều phu, hắn
không ngại gì mà không xin ngủ đậu nhưng đây lại là một quán hàng. Mà
trong bọc hắn không còn đồng tiền nào cả. Mùi cơm và thịt nấu bay ra xộc vào mũi, Thạch Đạt Lang nuốt nước bọt. Sực nhớ đến pho tượng mang theo, một pho tượng Quan Âm nhỏ, gọt bằng gỗ mận trong những lúc nhàn rỗi,
hắn định đem ra đổi lấy bữa cơm. “Mình sẽ giải thích cho chủ quán rõ,
chắc họ chẳng nỡ từ chối”.
Bèn đẩy cửa bước vào. Ba người khách ngồi cạnh lò quay ra nhìn. Râu ria
lởm chởm, quần áo xốc xếch, trong cảnh tranh tối tranh sáng bên ngọn lửa bập bùng, không ai đoán được họ bao nhiêu tuổi. Quán nghèo nàn. Hai cái bàn thấp đóng bằng ván cũ với ghế đẩu kê trong góc. Trên bếp, cũng dùng làm lò sưởi, treo cái nồi nấu thịt, mùi thơm tỏa ngào ngạt. Bên cạnh,
một hũ sành chắc đựng rượu hâm nóng.
Thạch Đạt Lang ngồi vào bàn. Một người khách hỏi:
- Muốn gì ?
- Ai là chủ quán ? Cho cái gì ăn chứ ?
Tức thì cả ba cùng nói:
- Quán ! Có khách !
Một người từ nhà sau b