
xác rắn trương phình trên mặt nước phủ đầy tàn tro, bốc
lên một mùi thối khắm nhức cả óc.
Tôi cởi truồng lội xuống lung, vớt lớp xác
lục bình cháy queo trong chiếc xuồng ngâm nước, vứt lên bờ rồi lắc xuồng tát
nước ra.
- May quá, nhờ phòng nắng nẻ be mà chiếc
xuồng của tía con mình khỏi cháy, tía nhỉ! - tôi lội mò dưới nước tìm nhặt đủ
cả: giầm, sào, ván sạp, không mất món nào.
Chúng tôi hì hục chống chiếc xuồng theo con
lạch cạn, đi lần ra hướng bờ sông. Từ ngoài rặng cây xa lắc chỗ bờ sông, vang
lên một tràng súng liên thanh pập... pập... và sau đó còn nghe rõ ràng tiếng
súng trường bắn loạn xạ một hồi lâu.
- Có thể giặc đã đổ bộ
vào xã mình rồi, con ạ? - tía nuôi tôi lo lắng.
- Làm sao bây giờ, tía?
- Về nhà xem ra sao, chứ
làm sao cái gì!
Chúng tôi lại lặng lẽ chống xuồng đi. Hai bên
bờ lạch xám ngoét một màu tro. Ngôi lều của chú Võ Tòng lấp dưới một lớp than
màu tro, nếu không có những khúc cây tràm xếp lên nhau làm bậc. thang còn chìm
ở mé nước thì tôi không thể nào nhận ra dấu vết của ngôi nhà cũ.
Xế chiều hôm đó, chúng tôi mới ra đến bờ
sông. Khu rừng bên tả ngạn vẫn còn đương xanh rờn, soi bóng những cây tràm bạc
thếch trên dòng nước lờ đờ. Tôi nhảy xuống sông tắm qua loa rồi trèo lên xuồng
mặc quần áo. Tía nuôi tôi không giục tôi một tiếng nào cả, cũng không lấy thuốc
lá ra hút. ông ngồi êm ru, mắt đăm đăm nhìn xuống dòng nước. Phút yên lặng trầm
mặc bất ngờ của ông lây sang tôi tức khắc. Mấy hôm nay, nóng lòng sốt ruột bao
nhiêu thì bây giờ khi sắp về đến nhà, tôi lại như muốn kéo dài thời gian ra,
như muốn đi chậm lại bấy nhiêu. Không biết có phải đó là bản năng hèn yếu của
con người, trong phút giây nào đó bỗng bất ngờ nổi lên, khiến mình trù trừ, như
sợ phải sớm chứng kiến quang cảnh đau lòng có thể xảy cho những nguội thân yêu
nhất của mình chăng.
Một lúc sau, không ai bảo ai, tía con chúng
tôi mỗi người cầm lấy cây giầm của mình bơi đưa chiếc xuồng qua sông. Mặt sông
vắng ngắt. Dòng sông như thẫm lại và rộng thêm ra. Một thứ không khí lặng lẽ
chết chóc, rờn rợn trùm lên mặt nước.
Đã trông thấy một đám người láo nháo bên kia
bờ sông, dưới ánh mặt trời tà. Chúng tôi quạt mạnh tay giầm, đưa xuồng rẽ nước
lao nhanh về hướng ấy. Từ bờ phía đó, một chiếc tam bản hai chèo đang chèo ra,
ngược lên dòng nước; khi nhận ra chúng tôi, người đàn ông đứng sau lái bèn vung
tay la lên..
- Bác Hai đó hả? Bác ơi,
giặc bắn chết Võ Tòng rồi. Vừa đem được xác về lúc nãy...
Tía nuôi tôi kêu "Trời” một tiếng. ông
đứng nhổm lên lái xuồng hỏi bằng giọng run run:
- Vậy chú có gặp... bà nhà tôi và tháng Cò ở
đâu không?
- Bình yên. Bình yên cả. Tôi vừa gặp bác gái
ban trưa đây. Tội nghiệp, bác khóc sưng cả mắt. Cứ lo trận cháy rừng...
Tía nuôi tôi thở phào một tiếng. Bấy giờ, tôi
mới khua giầm hời to:
- Giặc ở trên tàu bay bắn
xuống hở chú?
Người đàn ông đang chèo chiếc tam bản trố mắt
nhìn qua xuồng chúng tôi một lúc rồi mới nói:
- Không hay biết gì cả à? Giặc vào đóng bốt
tại Cây Dừa rồi.
- Chú đi đâu đó? Tía nuôi tôi hỏi..
- Đi nhắc hàng (mua quan tài) cho Võ Tòng
đây. Bác lên vuốt mắt ông ấy thử coi... Tội nghiệp, chết rồi mà cặp mắt vẫn
không chịu nhắm lại... Lát nữa, tôi sẽ quay về ngay thôi.
- Nhanh tay lên, con? Tía nuôi tôi giục.
Tôi có cảm giác như tự chiếc xuồng đang lao
nhanh vào bờ, chứ không phải do mình đang dốc lực bơi đi. Tôi chưa kịp buộc
xuồng vào một gốc cây thì tía nuôi tôi đã nhảy phóc lên, chạy đến chỗ đám người
xúm xít đứng vòng quanh trên một bãi cỏ.
Khi tôi lên tới nơi, lách qua mấy ngươi đứng
bên ngoài, chen được vào trong thì thấy tía nuôi tôi đang quỳ xuống bên cái
thây đắp bằng mấy tàu lá chuối, hai bàn chân người chết ló ra ngoài mé lá; vết
bùn đóng trên mấy đầu ngón chân hãy còn ướt. Lão Ba Ngù mặt đăm chiêu, đứng
phía sau đầu người chết có cắm mấy nén hương cháy. Thấy tôi, lão hất hàm một
cái, dường như ra ý hỏi mày cũng ở đây à? rồi lão lại đứng lặng yên trở về cái
dáng thiểu não và bộ mặt rầu rĩ ít thấy có ở lão xưa nay. Tía nuôi tôi run run
đưa bàn tay to lớn đẫm đầy mồ hôi ra cầm một tàu lá chuối nhấc lên. Đôi mắt chú
Võ Tòng vẫn mở trừng trừng như lúc còn sống, ngồi bên nồi thuốc ở giữa lều một
đêm khuya. Bộ ngực to lớn bị đạn bắn thủng năm sáu lỗ, máu đọng đen sì trên
những vết thương càng làm nổi bật lên bảy chữ: "Ninh thọ tử, bất ninh thọ
nhục" bằng quốc ngữ xâm một cách nắn nót theo lối cổ tự, giữa hình một quả
tim có con rồng cuộn khúc bao quanh. Con người bị áp bức ấy, lúc sống đã ưỡn ngực
mình ra cho anh em bạn tù cùng khổ thích vào da thịt những chữ xanh để nêu lên
một phương châm sống: “Thà chịu chết quyết không chịu nhục giờ đây đã nằm xuôi
tay trên bãi cỏ, nhưng đôi mắt hãy còn chưa chịu khép lại”
Tía nuôi tôi nhìn vào mặt cái xác, khấn to,
như gọi hồn người chết về chứng chiếu lời mình.
- Võ Tòng ơi? Vong hồn chú sống khôn thác
thiêng cho tôi vuốt m