
ăng chạy về phía này, cảm thấy khẩn trương, luôn miệng giục:
“Lục ca, mau lên.”
Định Trạm trong lúc vội vàng vẫn khom người ngắt hai cành hoa thược dược, ngậm ở trong miệng, xông lên trước, dựa vào thế tường liên tiếp đạp hai bước, đã nhảy lên đầu tường. Hai người từ trên cây đại thụ nhảy xuống, Định Trạm dắt tay nàng, co cẳng chạy.
Hai người chạy một mạch ra tận cổng chùa, nhưng lại thấy trước chùa đoàn người chật ních, đẩy cũng chẳng suy suyển được nửa bước, mới dừng chân được chút, Mộ Lâm Nguyệt lại bị cậu kéo chạy như điên, đến lúc này thở hổn hà hổn hển, thắt lưng đau đến nỗi đứng thẳng lên không nổi. Định Trạm vừa mệt vừa buồn cười, giao hai đóa hoa thược dược cho nàng, nói:
“Được có hai cành hoa này, thực bõ công.”
Thấy mái tóc dài của nàng tán loạn, lại nhìn ra phía sau mấy vị tăng đuổi theo nãy giờ đang ngó nghiêng tứ phía không ngừng, sợ bị phát hiện, rút từ trong áo một cái khăn tay bằng lụa, nói:
“Muội mau buộc tóc vào đi.”
Mộ Lâm Nguyện nhận lấy cái khăn tay, buộc gọn lại tóc lần nữa, nhón lấy hai đóa hoa, ngửi ngửi nhụy hoa, buồn bã thở dài:
“Hoa đẹp như thế, lại chẳng có hương thơm, mới thấy trên đời này vạn sự chẳng như ý.”
Định Trạm nói:
“Thật đúng là nhóc con, có mùi hoa, có hương hoa hay khong, với việc đời như ý hay không như ý thì có liên quan gì?”
Mộ Lâm Nguyệt thản nhiên cười, nụ cười còn xinh đẹp hơn cả những ngón tay của nàng nữa, Định Trạm không dám nhìn tiếp, nói:
“Đi thôi.”
Rồi cùng nàng ra ngoài tìm ngựa, lên ngựa quay trở về phủ.
Lúc về đến nơi đã là hoàng hôn, nàng lặng lẽ luồn theo cửa nách đi vào, con bé a hoàn đứng đợi nàng đã sớm cuống cuồng, thấy nàng về , vội vàng chạy đến, nói:
“Phu nhân đã hỏi mấy lần rồi, em giấu giếm không được.”
Lâm Nguyệt đang muốn đi theo nàng, chợt nhớ một việc, đưa tay sờ sờ thắt lưng, kêu lên thất thanh:
“Chuỗi ngọc của ta đâu mất rồi.”
Định Trạm vốn đã đi được vài bước, nghe nàng nói vậy, quay lại thấy mặt nàng trắng bệch, đoán là đã rơi ở Đại Minh Tự, vội an ủi:
“Không sao, ta đi tìm giúp muội.”
Qua mấy ngày, rốt cuộc có cơ hội gặp được nàng, nhân dịp nàng chưa hỏi đến đã nói ngay:
“Ta tự mình ra vườn hoa tìm hai lần mà vẫn chẳng thấy, nói không chừng đã rơi ở trên đường, bị người ta nhặt mất rồi.”
Nàng khẽ đáp:
“Không tìm đươc, cũng đành thôi.”
Thế nhưng trong mắt lại hiện lên một thần sắc hiếm thấy ở các cô gái nhỏ, làm cho người ta cảm giác buồn bã vô hạn. Không biết tự bao giờ, tiểu cô nương luôn luôn kéo ống tay áo chàng đã trở thành một cô thiếu nữ.
Một ngày kia, lúc chàng đang tỷ thí bắn cung trong vườn cùng Mộ Nguyên, ở xa xa trông thấy nàng cùng a hoàn Cận Hương đang bước dạo trên cầu, xiêm y màu vàng nhạt, tựa như một cảnh sắc xuân tháng hai dịu dàng điềm đạm chưa từng có, đập vào con mắt, thân hình mềm mại lả lướt làm cho lòng người tiếc thương.
Con gái vào tuổi cập kê, cơ hội ở chung cùng chàng hầu như chẳng còn, một lần chợt tình cờ gặp gỡ này, nàng theo đúng quy củ hành lễ:
“Kính gặp Lục ca.”
Trong tay nàng theo lệ cầm chiếc quạt lụa trắng thêu một bức thủy mặc họa cảnh nước đổ sườn núi, che đi hơn phân nửa khuôn mặt, chỉ lộ ra phía một bên vành tay có cài một cây trâm thược dược, đóa hoa kiều diễm khe khẽ rung rinh trong gió xuân, một đôi con mắt vẫn sáng long lanh như trong ký ức ngày nào, ánh mắt đong đưa lúng liếng, phảng phất một ngọn gió xuân vừa khẽ lướt qua gợn lên những làn sóng vô tận. Chàng chỉ thấy con tim mình đánh “thịch” một tiếng, từ sâu trong xúc cảm nổi lên những cơn sóng lòng không dứt, hết đợt này đến đợt khác dồn dập theo đôi con ngươi của nàng. . .
********************************
Chàng lại đưa tay rót một chén rượu, chậm rãi nuốt cạn. Ánh trăng đầy trời như nước, chiếu vào trong gác, in bóng chính mình lẻ loi trên tấm lông cừu đỏ, đơn độc đến thê lương.
Chàng quay mặt lại, trên mặt chợt nở một nụ cười, nói với Mạnh Hành Chi:
“Nếu lão Thất đã kiêng kỵ một chiêu sát kia, vậy bổn vương nhất định sẽ giúp hắn đạt được mục đích.”
Mạnh Hành Chi nói:
“Vương gia, cũng không nên nóng ruột nhất thời, mất bình tĩnh là không tốt.”
Trên mặt chàng vẫn là cái kiểu cười tản mạn như thế:
“Chúng ta trầm tĩnh được, thế nhưng có người lại không có khả năng trầm tĩnh đươc.”
********************************
Lễ Vạn Thọ của Hoàng Đế là vào ngày mười lăm tháng năm, bởi vì còn đang chịu tang, cho nên hết thảy những loại lễ mừng này đều phải làm cho thật đơn giản. Dù thế, còn mới đang tháng tư mà ban Ti Lễ đã đặc biệt vội vã, sửa soạn sắp xếp đâu đó để bày yến tiệc, trong một hành cung to như vậy, nơi nào dọn tiệc, nơi nào ca múa, nơi nào du ngoạn, đều phải bố trí kỹ càng từng cái một, vội vàng đến nỗi be bét ra cả. Ai dè vừa vào tháng năm, Hoàng Đế thình lình lại thay đổi ý định, muốn đi nghỉ ở Đông Hoa kinh trước dự tính, lại còn quyết định sẽ làm lễ Vạn Thọ ở đó.
Ở trong kinh ngày hè nắng nóng thiêu đốt, các vị Hoàng Đế qua bao triều đại, tháng sáu hằng năm may mắn có Đông Hoa kinh để đến nghỉ hè, tới đầu mùa thu mới trở về Tây Trường kinh.
Hoàng Đế xưa nay chỉ ưa lạnh ghét nóng, nghĩ đến