
ổ gà lớn, xe khựng lại. Gói quà của Thảo, tôi để ở nắp cabin xe rơi thẳng
vào ngực. Tôi tò mò muốn biết cây kim châm như thế nào nên mở gói quà ra. Tôi
sững sờ khi thấy trong hộp giấy có một cây kim may bao bố dài gần gang tay và
một mảnh giấy có ghi mấy dòng chữ: "Gửi tặng ông một cây kim châm. Ở vùng biển
khi nào đau tim, ông hãy châm nó vào ngay huyệt giữa tim. Đừng run tay. Hãy châm
thật mạnh. Ông sẽ khỏi bệnh."
Xe chưa qua hết đèo Ngoạn Mục, tôi đã nghe tiếng sóng vỗ lùng bùng trong lỗ
tai và đầu óc choáng váng. Tôi sợ hãi xoa bóp ngực mình và năn nỉ: Tim ơi, đừng
đau nữa!
Tôi đã đến Huế hai lần, lần nào cũng vội vã vì bận công việc nên chỉ ở lại
một hai ngày. Huế vốn thâm trầm, thầm lặng, nên chẳng thể hiểu vội vã được. Tôi
đã liều viết cái phần mình chưa hiểu về Huế nên không tránh khỏi sự hiểu lầm.
Rất mong bạn đọc gốc Huế lượng thứ.
*
* *
Tường dắt tôi đi thăm lăng Tự Đức. Vốn là dân Huế nên Tường rành rọt, chỉ cho
tôi biết nơi nhà vua xem hát bộ, nơi cung nữ ở... Khiêm Lăng to lớn này được xây
dựng trong ba năm và vua thường đến đây vừa nghĩ ngơi vừa chiêm ngưỡng nơi sẽ
chôn cất mình.
Ngồi nghỉ chân dưới bóng mát một cây sứ cổ thụ, bên ngôi mộ xây bằng đá cẩm
thạch của vua, tôi tò mò đọc bài thơ chữ nôm của vua Tự Đức in trên tấm vé bán
vào thăm lăng. "Khôn dại cùng chung ba tất đất, Giàu sang chưa chín một nồi kê".
Tôi thầm hỏi: "Vua đã viết được như vậy, sao còn làm khổ người dân xây chung
quanh "ba tấc đất" của vua nhiều ngôi nhà to lớn như một cung điện? Phải chăng
từ xưa đến nay, giữa viết và làm thường khác xa nhau?"
Trưa hè ở Huế trời nắng gắt. Khi rời khỏi lăng vua Tự Đức, tôi cảm thấy đói
bụng. Tôi nói Tường chở tôi đi ăn một món ăn Huế. Tường nói sẽ chở đến quán bánh
khoái. Nơi đó cô gái bán hàng biết mười ngoại ngữ.
Tôi tin là Tường nói thật. Người Huế vốn ham học. Cô gái hàng ngày phải giao
dịch với nhiều khách du lịch nước ngoài nên có thể em đã học được một số ngoại
ngữ. Nhưng biết được mười ngoại ngữ thì cũng đáng nể, tôi hối thúc Tường chạy xe
Honda thật nhanh để được gặp mặt cô gái. Vừa "no mắt" vừa no bụng.
Tường dừng xe trước một quán bán bánh khoái gần chợ Đông Ba. Khách ra vào tấp
nập. Nhiều nhất vẫn là khách du lịch nước ngoài mặc quần soọc vai mang balô.
Phải đợi một lúc, chúng tôi mới có ghế ngồi. Những chiếc bánh khoái nóng hổi
được đem đến. Chúng giống như bánh xèo ở Sài Gòn nhưng chỉ nhỏ bằng lòng bàn tay
và được chiên vàng rụm. Đặc biệt bánh khoái ăn với tương chứ không phải nước mắm
chua ngọt. Ăn xong một chiếc bánh khoái mùi rau húng quế còn thơm ngát trong
miệng, tôi hỏi Tường:
- Cô gái biết mười ngoại ngữ đâu?
Tường cười chỉ cô gái mặc áo thun đỏ, váy trắng (điều hiếm thấy ở các cô gái
Huế) đang đứng nói chuyện với một ngoại kiều cách chỗ tôi ngồi hai cái bàn. Em
đứng quay lưng lại nên tôi không nhìn thấy khuôn mặt em. Hai người đang trò
chuyện vui vẻ, rất tiếc họ đứng hơi xa nên tôi không nghe rõ họ nói tiếng nước
nào.
Một khách nước ngoài ngồi gần bàn tôi, gõ đũa vào miệng chén. Cô gái quay lại
nhìn rồi bước đến tính tiền. Lúc này tôi mới nhìn rõ khuôn mặt em. Một khuôn mặt
thanh tú với đôi mắt to đen láy và cái miệng luôn cười. Người khách chỉ những
đĩa thức ăn trên bàn. Cô gái gật đầu nhẩm tính rồi ghi vào phiếu tính tiền đưa
cho ông ta xem. Người khách chỉ vào một cái đĩa và giơ hai ngón tay. Cô gái cười
ghi thêm vào phiếu tính tiền. Người khách móc tiền ra trả và cười nói: "How old
are you?". Đáp lại, cô gái xòe hai bàn tay ra hai lần, lần sau em cụp lại một
ngón cái.
Bây giờ tôi mới hiểu Tường đã "chơi chữ". Cô gái bị câm và phải nói chuyện
bằng 10 ngón tay. Uống một ngụm bia Huda, tôi hỏi Tường:
- Cô gái bị tật hồi nhỏ à?
Tường gật đầu rồi nói:
- Cả ba chị em đều bị câm.
- Bệnh di truyền?
- Không, ba mẹ mấy cô đều nói năng bình thường. Người ta đồn rằng mộ ông nội
của mấy cô táng trúng lưỡi rồng nên gia đình làm ăn phát đạt, bù lại con cháu
đều bị câm. Nếu dời mộ đi chỗ khác, các cô sẽ nói được nhưng bù lại gia đình sẽ
nghèo mạt ba đời. Cô chị đang đứng đổ bánh khoái đó. Cô thứ hai đi tính tiền,
còn cô út ở trên lầu lâu lâu xuống phụ việc. Cũng may ba chị em tuy không nói
được nhưng vẫn nghe được và họ viết chữ rất đẹp.
Tôi không biết đấy có phải là điều "may" hay càng khốn khổ hơn khi người ta
nghe được mà không nói được?
Đợi quán thưa khách, tôi gọi cô gái đến tính tiền để có dịp trò chuyện. Cô
gái đếm những đĩa bánh khoái và hai chai bia trên bàn rồi em viết phiếu tính
tiền. Tôi hỏi:
- Em tên gì?
Cô gái cười nhìn quanh rồi chỉ bức tranh vẽ hồ sen Tịnh Tâm treo trên
tường.
Tôi nói:
- Em tên Liên?
Cô gái gật đầu. Tôi hỏi tiếp:
- Nhưng gì... Liên?
Em viết trên phiếu tính tiền chữ Diệu.
- Diệu Liên! Tên hay quá. Đóa sen huyền diệu.
Cô gái e thẹn cúi đầu. Tôi bắt đầu kể lể: Tôi ở Sài Gòn mới ra thăm Huế lần
đầu. Đến một nơi nào xa lạ, tôi nghĩ không phải chỉ đi xem thắng cảnh hay đi dạo
phố xá mà hiểu được nơi đó. Cần phải thưởng thức những món ăn đặc sản và nhất là
phải làm q