
vị ở phía trong. Mặt trong cổng được ốp đá mài nhẵn để bảo vệ chúng tôi khỏi hỏa hoạn và cho chúng tôi thêm sức mạnh chống lại mọi tai ương có thể xâm nhập vào hoa viên. Chạm vào những phiến đá đó giống như chạm vào phần âm lạnh lẽo của thế gian. Từ chỗ đó, tôi tới từ đường cúng bà nội, đốt nhang và cầu bà phù hộ cho tôi mạnh mẽ.
Cuối cùng tôi tới thư phòng cha. Khi bước vào trong, tôi có thể thấy rằng cha đã vắng mặt một thời gian. Tôi không ngửi thấy mùi thuốc lá sợi hay trầm hương thoảng trong không khí. Chiếc khay đựng đá lạnh mùa hè đã được đem đi nhưng lò than không được mang vào để sưởi ấm căn phòng trong cái giá lạnh mùa thu. Trên hết, tinh thần của ông đã biến mất, không chỉ trong căn phòng này, mà trong cả Trần phủ nữa. Ông là người quan trọng nhất trong Trần phủ. Thế nào mà tôi lại không nhận ra sự vắng mặt của ông, dù ở trong buồng một mình?
Tôi bước đến chỗ mấy giá sách và lựa những tập thơ, những tập sách về lịch sử, thần thoại và tín ngưỡng hay nhất mà tôi có thể tìm thấy. Tôi đi đi lại lại ba lượt để chuyển sách về buồng mình. Sau đó, tôi trở lại thư phòng và ngồi một lúc trên mép trường kỷ của cha, nghĩ xem liệu tôi có thể cần gì nữa. Cuối cùng, tôi chọn ba cuốn sách khác trong chồng sách để ở góc rồi rời thư phòng trở về buồng mình. Tôi bước vào và lần này đòng cửa lại một cách tự nguyện.
Tôi bỏ cả tháng tiếp theo để miệt mài nghiên cứu từng bản trong số mười hai bản Mẫu Đơn Đình đã sưu tập được và chép lại mọi chú giải tôi từng viết trong những bản đó lên lề giấy trong bản gốc hai tập do Thang Hiền Tổ xuất bản. Bản sách mà chị dâu của chồng tương lai đã gửi cho tôi. Sau khi hoàn tất việc ấy, tôi tập hợp những cuốn sách của cha quanh mình và đọc lướt chúng cho tới khi, một tháng sau, tôi xác định được tất cả ngoại trừ ba trong số các tác giả gốc của những đoạn mượn ý trong tập một và hầu hết tập hai. Tôi không giải thích thuật ngữ, những ám chỉ, bình luận về âm nhạc, cách trình diễn hoặc cố so sánh Mẫu Đơn Đình với các vở kịch khác. Tôi viết bằng kiểu chữ nhỏ xíu, ken sít vào giữa các dòng văn bản.
Tôi không rời khỏi buồng mình. Tôi để vú Thiệu tắm gội và thay y phục, nhưng ngoảnh mặt với thức ăn bà ta mang tới. Tôi không đói; trạng thái mê sảng dường như làm tôi nghĩ và viết rõ ràng hơn. Khi các thím và em họ đến rủ tôi đi dạo ở hoa viên hay cùng họ uống trà, ăn bánh ở Xuân Đình, tôi hòa nhã cám ơn họ song từ chối. Chẳng đáng ngạc nhiên, quan điểm của tôi không hợp với mẹ. Tôi không kể với bà việc tôi đang làm và bà cũng không hỏi. "Con không thể trở thành một người vợ hiền thảo nếu cứ trốn trong buồng với những cuốn sách của cha được," bà bảo. "Tới Xuân Đình đi. Ăn điểm tâm và lắng nghe các thím của con ấy. Tới ăn trưa và học cách đối xử với tỳ thiếp của chồng. Cùng chúng ta ăn tối và hoàn thiện cách chuyện trò."
Bỗng dưng mọi người đều muốn tôi ăn, nhưng bao nhiêu năm qua, mẹ đã bảo tôi cẩn thận kẻo trở nên mũm mĩm như Chổi và ăn ít để người được mảnh mai trong lễ thành hôn. Nhưng làm mà sao ăn được khi người ta đang yêu. Cô gái nào cũng có trải nghiệm này. Cô gái nào cũng hiểu chuyện này là thế. Trái tim tôi đang mơ về chàng thi nhân ấy, đầu óc tôi đầy ắp công trình ấy. Tôi chắc rằng nó sẽ bảo vệ mình trong nỗi cô đơn của cuộc hôn nhân. Còn dạ dày tôi ư? Nó trống rỗng và tôi không bận tâm.
Tôi bắt đầu nằm lì trên giường. Tôi dành cả ngày để đọc hai tập sách. Đêm đến, tôi đọc trong ánh đèn dầu lập lòe. Càng đọc, tôi càng nghĩ về những mối liên hệ mong manh Thang Hiền Tổ đã sử dụng để sáng tạo ra một tổng thể sâu sắc hơn. Tôi ngẫm ngợi về những thời điểm quan trọng trong vở kịch, những ám thị, những chủ đề quán xuyến, và cách từng lời, từng hành động làm bừng sáng lên thứ ám ảnh tôi: tình yêu.
Chẳng hạn, cây mai là cây của cuộc sống và tình yêu. Nó ở nơi Lệ Nương và Mộng Mai lần đầu gặp gỡ, nơi nàng được chôn cất và nơi chàng mang nàng trở lại cuộc sống. Ở ngay cảnh đầu tiên, vì một giấc mộng, chàng đã đổi tên thành Mộng Mai. Nhưng cây mai cũng gợi nhắc tới Lệ Nương vì hoa mai mang vẻ đẹp mong manh, thanh tao và gần như trinh bạch. Khi một thiếu nữ thành hôn, nhan sắc nàng bay mất và mãi mãi hình ảnh lãng mạn của nàng cũng bay mất. Nàng vẫn còn những bổn phận phải thực hiện, sinh con, thờ cúng tổ tiên nhà chồng, trở thành một quả phụ tiết hạnh, nhưng nàng đã bắt đầu trượt dốc tới cõi chết.
Tôi lấy thỏi mực, mài xuống nghiên, đổ nước rồi viết những suy nghĩ của mình vào lề trên của tập một bằng nét chữ nắn nót nhất của mình:
Phần lớn những người đau lòng vì mùa xuân đều đặc biệt xúc động trước những đóa hoa tàn, giống như tôi lúc dạo bước ở hoa viên. Lệ Nương nhìn những cánh hoa mà hiểu rằng tuổi xuân và nhan sắc của nàng chỉ là phù du. Nàng đâu biết rằng cuộc đời mình cũng mong manh như thế.
Vở kịch luôn thu hút trí tưởng tượng của tôi bởi cách nó khắc họa tình yêu lãng mạn, rất khác so với những cuộc hôn nhân không tình yêu được sắp đặt trong Trần phủ. Tôi đã lớn lên cùng với chúng, và sắp có một đám cưới như thế. Với tôi, tình yêu là thứ cao quý, là tham vọng lớn nhất của