
àm khiến tôi rơi vào hoảng loạn điên cuồng.
"Mẹ không được làm thế! Chúng là của con!" Tôi vừa gào lên vừa thu lại tất cả các tập sách mình với tới được, nhưng mẹ và vú Thiệu khỏe lạ thường. Họ phớt lờ tôi, xua những nỗ lực cứu sách của tôi dễ dàng như xua một con muỗi mắt.
"Công trình của con, làm ơn, mẹ ơi," tôi khóc. "Con đã vất vả biết bao."
"Ta không biết con đang nói về việc gì. Con chỉ có một công trình duy nhất: lấy chồng," bà nói khi giằng lấy bản Mẫu Đơn Đình mà cha đã tặng tôi trong ngày sinh nhật.
Tôi nghe thấy tiếng người bên ngoài, trong cái sân phía dưới buồng tôi.
Mẹ bảo, "Con phải xem tính ích kỷ của mình đã gây ra chuyện gì."
Bà gật đầu với vú Thiệu, rồi hai người lôi tôi khỏi giườn, kéo lê tới bên cửa sổ. Bên dưới, bọn gia nhân đã đốt lò lên. Họ thả từng cuốn sách của cha vào ngọn lửa. Những dòng thơ của các thi sĩ thời Đường mà ông yêu thích tan biến như khói trong không trung. Tôi thấy một tập sách của tác giả nữ cuộn cháy thành hư không. Ngực tôi phập phồng cùng những tiếng nức nở. Vú Thiệu buông tôi ra và trở lại giường để thu nốt những cuốn còn lại.
Khi vú Thiệu đi ra ngoài, mẹ hỏi, "Con có tức giận không?"
Tôi không tức giận. Tôi chẳng cảm thấy gì ngoài nỗi thất vọng. Sách vở và thơ ca không thể đẩy lui cái đói, nhưng không có chúng, tôi không sống được.
"Hãy bảo ta là con giận dữ đi," mẹ nói như khẩn cầu. "Đại phu bảo con sẽ nổi giận mà."
Khi tôi không trả lời, mẹ quay đi và khuỵu gối xuống.
Bên dưới, tôi dõi theo vú Thiệu khi bà ta thả những bản Mẫu Đơn Đình tôi sưu tầm vào lửa. Khi mỗi bản bị ngọn lửa ngốn ngấu, tôi lại quặn thắt trong lòng. Đó là những tài sản quý báu nhất của tôi. Giờ đây chúng đã biến thành những mảnh tro tàn cho gió cuốn lên và thổi giạt ra ngoài phủ. Công trình và mọi hy vọng của tôi đã biến mất. Tôi tê tái vì thất vọng. Giờ đây làm sao tôi có thể tới nhà chồng được nữa? Làm sao tôi có thể sống sót trong nỗi cô đơn?
Bên cạnh tôi, mẹ khóc. Người bà gập ra phía trước cho tới khi chạm đầu xuống sàn, và rồi bà lê tới chỗ tôi, phủ phục như đầy tớ. Bà túm gấu váy tôi trong các ngón tay và vùi mặt vào lớp lụa.
"Hãy giận dữ với ta đi con ơi." Giọng bà nhẹ đến nỗi tôi hầu như không nghe thấy. "Con gái ơi, làm ơn đi."
Tôi đặt nhẹ tay lên gáy bà, nhưng không nói một lời nào. Tôi chỉ nhìn vào ngọn lửa.
Vài phút sau, vú Thiệu tới đưa mẹ đi.
Tôi ở lại bên cửa sổ, cánh tay tì trên bậu cửa. Hoa viên ảm đạm trong mùa đông. Bão táp và sương mù đã vặt trụi cây cối. Những cái bóng kéo dài và và ánh sáng lờ mờ. Tôi không đủ sức để di chuyển. Mọi thứ tôi làm đã bị phá hủy. Cuối cùng tôi vươn người lên. Đầu óc quay cuồng. Chân cẳng run rẩy. Tôi ngỡ như đôi bàn chân nhỏ bé của mình không mang nổi sức nặng bản thân. Tôi chậm chạp lê lết về giường. Tấm chăn lụa nhăn nhúm và nhàu nát vì nỗ lực cứu sách vô ích của tôi. Tôi kéo tấm chăn và trèo lên giường. Khi chân tôi trượt xuống dưới lớp lụa mát lạnh tôi cảm thấy như đụng phải vật gì đó. Tôi với xuống dưới lớp vải và kéo ra tập một bản Mẫu Đơn Đình mà chị dâu tương lai đã gửi cho tôi. Trong cơn thanh tẩy điên rồ ấy, cuốn sách này và tất cả chữ viết trên lề đã được cứu thoát. Tôi nức nở trong nỗi biết ơn và đau buồn.
Sau cái ngày khủng khiếp đó, thi thoảng tôi ra khỏi giường vào lúc đêm khuya, bước qua thân hình đang ngủ của vú Thiệu, tới bên cửa sổ, kéo sang một bên tấm rèm nặng nề giữ cho cái lạnh mùa đông khỏi tràn vào. Tuyết đã rơi và ý nghĩ về những bông hoa từng tỏa hương bị nghiến nát dưới sắc trắng rét buốt làm tôi phiền muộn. Tôi ngước nhìn vầng trăng, dõi theo sự di chuyển chậm chạp của nó trên bầu trời. Đêm này qua đêm khác, sương làm ướt đẫm áo dài, chất nặng lên tóc tôi, làm những ngón tay tôi ớn lạnh.
Tôi không thể chịu đựng những ngày băng giá bất tận này thêm nữa. Tôi nghĩ về Hiểu Khánh, tưởng tượng xem hàng ngày nàng ăn vận như thế nào, vuốt váy cho sát người. Nàng ngồi trên giường để không làm rối tóc, Hiểu Khánh đã cố giữ gìn nhan sắc nhưng những ý nghĩ về cuộc sống tương lai âu sầu ảm đạm đã làm tôi tê liệt, và tôi chẳng làm gì hết. Tôi thậm chí không còn quan tâm đến bàn chân mình. Vú Thiệu rửa ráy và bó chân tôi hàng ngày một cách vô cùng âu yếm. Tôi biết ơn nhưng cũng hết sức cẩn trọng với bà ta. Tôi giấu tập Mẫu Đơn Đình cứu được của mình trong lớp lụa quấn quanh người, sợ rằng bà sẽ tìm thấy rồi báo với mẹ và nó sẽ bị mang đi đốt.
Triệu đại phu lại tới. Ông ta khám bệnh cho tôi, cau mày, rồi nói, "Thưa Trần phu nhân, bà đã hành động đúng. Phu nhân đã xua đuổi tai họa chữ nghĩa khỏi con gái mình. Việc đốt những cuốn sách gở đó đã giúp tránh cho ma quỷ vây quanh tiểu thư."
Ông ta bắt mạch tôi, theo dõi tôi hít vào thở ra, hỏi tôi vài câu vô nghĩa rồi tuyên bố, "Các thiếu nữ, nhất là vào thời điểm lễ cưới gần kề, dễ bị ma quỷ làm tổn hại. Các cô gái trẻ bị những thứ tà ma này làm cho mất trí. Càng đẹp thì càng dễ bị rùng mình ớn lạnh và sốt cao. Cô gái sẽ tuyệt thực, giống như con gái phu nhân vậy, cho đến chết." Ông ta bẹo cằm trầm ngâm, rồi nói tiếp. "Điều này, như phu nhân lường được, không