
ạc trong giọng mẹ khiến tôi liếc nhìn lên. Bà hẳn vẫn còn giận dữ với tôi vì vẻ mặt bà trông khá lúng túng. Nhưng mẹ đã hoàn thiện nghệ thuật che giấu cảm xúc, nên nét mặt bà đã mau chóng bình thản lại. "Những món quà dẫn cưới cuối cùng đã tới rồi. Có lẽ con thích xem trước khi người ta cất chúng đi. Nhưng ta mong con..."
"Xin mẹ đừng lo. Con thay đổi rồi ạ."
"Ta thấy điều đó," bà bảo, nhưng tôi không thấy niềm vui trong giọng bà. Chẳng những vậy, tôi thấy sự lo âu. "Nào. Tới xem đi. Rồi ta muốn con cùng chúng ta ăn điểm tâm."
Khi rời khỏi căn buồng, một sợi chỉ xuyên suốt các cảm xúc của tôi với nhau. Nỗi cô đơn, thất vọng và tình yêu kiên định dành cho chàng thi nhân. Tôi đã học cách trút nỗi buồn của mình qua tiếng thở dài.
Tôi theo mẹ tới An Tọa Đường, giữ một khoảng cách để tỏ lòng kính trọng. Lễ vật dẫn cưới được mang đến nhà chúng tôi trong những chiếc rương sơn mài trông như quan tài kính. Gia đình tôi đã nhận được những thứ lễ vật thường thấy: lụa và gấm, vàng, nữ trang, đồ gốm sứ, bánh, sủi cảo, rượu và thịt lợn. Vài món trong đó để dành riêng cho tôi; phần lớn là cho hòm bạc của cha. Các chú tôi nhận được những khoản lì xì rất hậu hĩ. Đây là bằng chứng vật chất rằng hôn lễ của tôi chẳng bao lâu nữa sẽ diễn ra. Tôi véo sống mũi để ngăn mình không khóc. Khi đã làm chủ được cảm xúc, tôi nở một nụ cười lặng lẽ. Cuối cùng, tôi đã được ra khỏi căn buồng cấm túc và mẹ đang quan sát xem có cử chỉ nào vượt ngoài khuôn khổ hay không. Tôi phải thận trọng.
Mắt tôi dừng lại trên một gói bọc lụa điều. Tôi liếc nhìn mẹ và bà gật đầu để tôi biết mình có thể mở nó. Tôi lật các nếp gấp ra. Bên trong là một bộ hai tập Mẫu Đơn Đình. Đó là bản duy nhất tôi chưa có, bản do Thang Hiền Tổ đích thân xuất bản. Tôi mở bức thư ngắn kèm theo bộ sách. Đồng yêu mến, chị mong được cùng em thức khuya, uống trà và chuyện trò về vở kịch này. Chữ ký dưới thư là của chị dâu chồng tương lai của tôi. Chị ấy đã về sống ở Ngô gia. Khoản dẫn cưới cũng khá, nhưng món quà này bảo tôi rằng ít nhất cũng có một người có thể bầu bạn cùng tôi trong khu nhà nội đường của Ngô gia.
"Con được giữ không ạ?" tôi hỏi mẹ.
Lông mày bà nhíu lại và tôi tưởng bà sẽ khước từ.
"Cất về buồng rồi đến ngay Xuân Đình nhé. Con cần phải ăn."
Tôi áp chặt tập sách vào ngực, bước chầm chậm về buồng và đặt chúng lên giường. Rồi vâng lời mẹ, tôi tới Xuân Đình.
Tôi đã bị nhốt hai tháng, và tôi nhìn căn phòng cùng mọi người bằng con mắt mới. Cảm giác căng thẳng vẫn sôi sục giữa các thím, các em họ, mẹ tôi với những người phụ nữ không có mặt sáng nay, những người thiếp và con gái họ. Nhưng vì đã vắng mặt một thời gian nên tôi thấy và cảm nhận một làn sóng ngầm mà tôi chưa bao giờ nhận ra một cách đầy đủ trước đây. Người đàn bà nào cũng mong có bầu ít nhất mười lần trong đời. Đàn bà trong Trần phủ khó mang bầu và khi đã có thì họ dường như không thể sinh con trai. Gánh nặng không có con trai đè lên mọi người. Cứ tưởng các tỳ thiếp sẽ cứu dòng tộc đang suy vong, nhưng mặc dầu chúng tôi nuôi họ ăn, cho họ quần áo và nhà ở, cũng chẳng ai sinh được con trai. Theo lẽ tự nhiên, họ không được phép ăn điểm tâm cùng chúng tôi, nhưng dù sao họ vẫn ở cùng chúng tôi.
Các em họ dường như có một thái độ mới mẻ với tôi. Chổi, con bé đã sắp đặt để tôi bị nhốt, gắp mấy chiếc bánh bao cho tôi. Liên rót trà và đưa cho tôi bát cháo đã được nêm cá muối và hành tươi của nó. Các thím đến chào mừng sự trở lại của tôi bằng bộ mặt tươi cười và giục tôi ăn. Nhưng tôi không ăn một miếng nào. Tôi phớt lờ ngay cả món bánh bao nhân đậu đãi mà vú Thiệu đưa từ bàn mẹ tới.
Khi bữa ăn kết thúc, chúng tôi chuyển đến Liên Khai Đường. Mọi người chia thành các nhóm nhỏ: thêu thùa, vẽ tranh và viết thư pháp, có cả nhóm đọc thơ. Những người tỳ thiếp tới, họ hôn nhẹ lên má tôi, tỏ vẻ vui sướng, và bẹo má tôi cho ửng lên. Chỉ còn hai trong số những người thiếp của ông nội tôi còn sống và họ đã rất già. Phấn thoa mặt làm nổi bật những nếp nhăn của họ. Đồ trang điểm tóc không làm họ trông trẻ hơn mà chỉ làm nổi bật màu bạc trắng. Eo họ đã bạnh ra, nhưng bàn chân họ vẫn nhỏ nhắn và xinh đẹp như vào những đêm ông nội tôi đã xoa dịu tâm trí mình bằng cách nắm những vật mong manh đó trong tay.
"Trông cháu càng ngày càng giống bà nội," người thiếp được ông nội tôi sủng ái nói.
"Cháu cũng tốt bụng và đôn hậu như bà ấy," người còn lại thêm vào.
"Đến thêu thùa cùng bọn ta đi," người thứ nhất nói tiếp. "Hay là việc gì khác cũng được. Bọn ta rất vui nếu có cháu bầu bạn, hãy làm bất cứ điều gì cháu muốn. Xét cho cùng, ở trong căn phòng này, mọi người đều là chị em mà. Lúc bọn ta đang trốn bọn Mãn Châu ở Dương Châu, bà nội cháu đã rất rõ ràng về điểm này."
"Bà dõi theo tương lai của cháu từ thế giới bên kia," người ít tuổi hơn nói bằng giọng khúm núm. "Bọn ta đã thay mặt cháu cầu khấn bà phù hộ."
Sau nhiều tuần cô quạnh, sự huyên thuyên và đua tranh ẩn sau việc thêu thùa, viết thư pháp và đọc thơ đã bộc lộ với tôi cảnh ảm đạm vô hình của những phụ nữ sống trong Trần phủ. Tôi cảm thấy nước mắt tụ lại từ nỗ lực tr