XtGem Forum catalog
Gặp Lại Chốn Hồng Trần Sâu Nhất

Gặp Lại Chốn Hồng Trần Sâu Nhất

Tác giả: Đang cập nhật

Thể loại: Truyện ngôn tình

Lượt xem: 323112

Bình chọn: 8.00/10/311 lượt.

n nhiên mà kết thúc sinh mệnh. Phật nói vạn

vật do duyên mà sinh, do duyên mà diệt, thân thể hình hài đều là mộng

huyễn bào ảnh[8'>, người chết đi không cần giữ nó lại trên thế gian. Linh hồn của Ngài được siêu thoát, sự tồn tại của nhục thân đã chẳng còn mảy may ý nghĩa, chấp nhất với nhân gian, ngược lại trở thành gánh nặng.

[8'> Mộng ảo bọt bóng.

Ở Alxa có một tu viện được đông đảo mọi người biết đến, gọi là Nam Tự,

còn gọi là tu viện Guangzong. Tu viện này quy mô không lớn lắm, nhưng

danh tiếng lại đứng đầu trong tám tu viện lớn của Alxa. Nghe nói năm xưa linh tháp chứa nhục thân của Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 Tsangyang Gyatso được đặt ở đây, mãi đến thời Cách mạng Văn hóa[9'> tu viện Guangzong bị hủy,

sư trong chùa và tín đồ mới âm thầm trộm nhục thân Phật sống trong linh

tháp đem ra ngoài đốt, và giữ lại hài cốt cùng xá lợi tử của Tsangyang

Gyatso, xây một tòa tháp màu vàng - tháp Đồ Tì[10'> Đạt Lai Lạt Ma thứ 6, dùng để đặt tro cốt của Ngài.

[9'> Cách mạng Văn hóa là một giai

đoạn xã hội hỗn loạn và tình trạng vô chính phủ ở Trung Quốc diễn ra

trong mười năm 1966-1976, gây tác động rộng lớn và sâu sắc lên mọi mặt

của cuộc sống chính trị, văn hóa, xã hội.

[10'> Đồ Tì: dịch âm tiếng Phạn, nghĩa gốc là đốt cháy, thông thường chỉ hỏa táng.

Năm 1757, Ngawang Lhundrup Daji, đệ tử của Tsangyang Gyatso, hoàn thành “Bí truyện”. Còn Đạt Lai thứ 7 Kelzang Gyatso viên tịch ở cung Potala, đã

kết thúc cuộc đời huyền diệu mà lại bình thường của mình. Cùng năm, tu

viện Guangzong trong núi Hạ Lan[11'> xây dựng xong, Tsangyang Gyatso được tôn làm Thượng Sư. Trong tu viện thờ cúng tháp chứa nhục thân của Đạt

Lai thứ 6, mãi đến năm 1966 vẫn còn.

[11'> Núi Hạ Lan: nằm ở giao giới Ninh Hạ và Nội Mông Cổ, Trung Quốc, dài khoảng 200km, đỉnh núi cao nhất 3.556m.

“Nhất trần thổ, vạn thiên cốt, do lai tương tư thôi nhân khổ. Linh lung tâm,

hàn băng chú, chích vi đạm mạc vô tình vật. Khả liên tuế nguyệt, mỹ mộng hư độ, vô tận tang thương vô tận lộ, mộng tỉnh lai thời nhân hà

xứ?[12'>” Tình cờ đọc được bài từ này, cảm giác tâm linh đôi chút xao

động. Nhưng không biết là ai viết, chỉ cảm thấy người viết bài từ này

chắc là một người hiện đại. Câu chữ không hẳn là tuyệt đẹp, nhưng tình

cảnh trong bài từ chẳng hiểu vì sao lại thu hút tôi. Nếu bài từ này dùng với cao tăng khác, đương nhiên không hợp ý cảnh, nhưng dùng với nhất

đại tình tăng Tsangyang Gyatso, dường như đã thỏa mãn tâm linh. Tuy nói

cái chết của cao tăng là Niết bàn, là siêu thoát, nhưng tôi luôn cảm

thấy sự ra đi của Tsangyang Gyatso mang một vẻ đẹp buồn khó nói thành

lời, và một nỗi tiếc nuối không thể nào hơn.

[12'> Tạm dịch: Một

mảnh đất bụi chứa muôn ngàn xương cốt, xưa nay tương tư khiến người khổ

sở. Trái tim hoạt bát đúc thành băng lạnh, chỉ là một vật lạnh nhạt vô

tình. Nuối tiếc năm tháng, mộng đẹp uổng phí, tang thương vô tận đường

dài vô tận, khi tỉnh mộng người ở nơi nào?

Người nói Tsangyang

Gyatso đa tình, đa thiện, không có quá nhiều mùi vị bi lệ. Tình cảnh

trong bài từ này không thích hợp với Ngài, huống chi là sau khi Ngài

trải qua biển biếc nương dâu, đạt đến cõi Niết bàn Tịnh độ? Chỉ là sinh

mệnh vốn dĩ cũng như đất bụi, đi qua hành trình dằng dặc, ai người có

thể không tang thương? Ai lại có thể không tỉnh mộng? Không phải năm

tháng vô tình, cũng chẳng phải bạn và tôi sống uổng, duyên đến duyên đi, chết sống có nhau, chẳng qua cũng là như thế.



“Thế gian nào có

đôi đường vẹn, Chẳng phụ Như Lai chẳng phụ nàng.” Đây mới là Tsangyang

Gyatso thật sự, Tsangyang Gyatso rong chơi giữa cõi Phật và sông tình,

lún sâu trong đó, không thể tự mình thoát ra.

Đại ái vô ngôn[1'>.

Phật dạy người buông xuống, khiến người hiểu được thương xót, học được

khoan dung. Phóng sinh trong hồ mọc đầy hoa sen, tin rằng cầu nguyện

kiếp này nhất định sẽ được trọn vẹn. Thắp sáng một ngọn đèn bơ trước

Phật, tin rằng kiếp này lầm đường lạc lối cũng có thể tìm ra lối thoát.

Xoay chuyển kinh luân trên đường cầu Phật, Tin rằng vận mệnh ba chìm bảy nổi sẽ mây nhạt gió nhẹ từ đây.

[1'> Tình yêu lớn lao sâu sắc không cần trực tiếp bày tỏ bằng lời nói.

“Khi ta chưa sinh, ai là ta; khi sinh ta ra, ta là ai.” Mỗi người sinh tồn

trên thế gian đều thường hay thốt ra lời cảm thán hoang mang như vậy.

Không biết mình là ai, lại không biết ai là mình. Có lúc đi trên đường,

luôn cảm thấy một vài người lướt qua dường như đã từng quen biết, nhưng

chắc chắn rằng đời này chưa hề gặp gỡ. Lẽ nào kiếp trước từng gặp gỡ bên sông Vong Xuyên? Hoặc là từng lướt qua nhau trên cầu Nại Hà?

Đối với truyền thuyết thần thoại đẹp đẽ đó, nhiều người đều thấy nhung nhớ

như số mệnh. Cũng giống như đá tam sinh, trên đá đã viết kiếp trước kiếp này của mình, bạn và tôi một thời đứng bên đá tam sinh, xem luân hồi

đến rõ ràng xác thực. Cho rằng như vậy thì có thể ghi nhớ tất cả, không

tái phạm lỗi lầm tương tự, không phụ bạc người không nên phụ bạc nữa. Ai hay vội vã qua cầu Nại Hà, vẫn phải uống chén canh Mạnh Bà nấu bằng

nước mắt kiếp này của mình. Canh Mạnh Bà là nước quên