
ần mở sách, suy nghĩ trong giây lát:
- Thiên
"kích cổ" (Gióng trống) trong phần "Bội Phong - Quốc
Phong", cậu thuộc chứ?
Pusyseda
nhếch mép cười, hai tay chắp sau lưng, bước vài bước, quay quay đầu, cất giọng
trầm bổng, ngâm ngợi:
Trống
đánh thùy thuỳnh
Gươm
giáo tập tành
Những
ai đắp đất xây thành
Xa
nhà xa nước riêng mình sang nam
…
Tử
sinh cách trở đôi nơi
Cùng
em anh đã nặng lời từ xưa
Đôi
ta những nguyện cùng giá,
Cầm
tay thủa ấy, bây giờ chưa quên
Cùng
nhau thôi đã cách xa,
Sống
đâu còn đến thân ta hỡi mình,
Thề
xưa còn đó rành rành,
Nay
thôi anh đã phụ tình cùng em[18'>
Đây là
bài thơ tôi thích nhất trong "Kinh Thi". Khi giảng bài cho Pusyseda,
tôi dùng tiếng Tochari, không giống khi lên lớp bằng tiếng Hán cho Rajiva. Nghe
cậu ta phát âm tiếng Hán trọ trẹ, tôi muốn bật cười, nhưng không hiểu sao sống
mũi cay cay, chừng như muốn khóc.
- Còn
nhớ không, chị từng nói, nếu tôi đọc thuộc "Kinh thi" thì chị sẽ trở
lại?
Tôi gật
đầu. Thật không ngờ, những lời buột miệng ra khi ấy, Pusyseda đều cho là thật.
- Năm
đầu tiên, tôi đọc thuộc toàn bộ cuốn "Kinh thi", nhưng chị không quay
lại. Tôi nghĩ rằng tại mình chưa đọc tốt,
nên năm thứ hai, tôi đọc thuộc lại một lần nữa, nhưng chị vẫn bặt vô âm tín.
Mỗi năm vào đúng ngày mùng mười tháng Một âm lịch, tôi đều đến phòng chị và đọc
hết một lượt cuốn 'Kinh thi" này. Tôi đọc mười lần thì chị đã trở về…
-
Pusyseda…
- Cảm
động lắm phải không?
Tôi
gật đầu, nước mắt trực trào ra, tôi sắp không kìm chế được nữa rồi!
- Vậy,
cho tôi ôm một cái!
Tên sói
nham hiểm chuẩn bị lao vào cô bé quàng khăn đỏ, nhưng đã bị khổ chủ cho một cái
bạt tai. Những giọt nước mắt khi nãy trực trào ra đã được nuốt ngược trở lại
vào trong bụng.
Hôm đó,
tôi đã đến thăm Kumarayana. Mười năm qua đi, hai
người con trai của ông đã trưởng thành và đang tận hưởng những năm tháng tươi
đẹp nhất của đời người, còn với ông, mười năm thời gian giống như lưỡi dao vô
hình cắt từng vết hằn học trên thân thể ông. Khuôn mặt vốn đã gầy guộc, khổ
hạnh, nay càng thêm hốc hác, xanh xao, tóc ông bạc trắng, hình như năm nay ông
mới ngoài năm mươi tuổi. Nhưng ông có vẻ rất yếu, những tiếng ho khan bật lên
liên hồi. Nhưng đôi mắt màu xám nhạt khảm giữa hai hốc mắt như hai vực sâu hun
hút ấy, đôi mắt sáng rực vẻ thông tuệ và từng trải ấy như nhìn thấu tâm cam con
người. Tôi bỗng run rẩy, đôi mắt Rajiva rất giống mắt cha.
Bộ dạng
bông đùa, cười cợt thường ngày của Pusyseda biến mất, cậu tỏ ra rất mực cung
kính đối với cha, chuyện trò từ tốn với ông rất lâu bằng tiếng Phạn. Kumarayana
không ngừng đưa ánh mắt kinh ngạc hướng về phía tôi, khiến tôi không khỏi lo
lắng, Nhưng sau đó, ông không hề tỏ ra thắc mắc về lai lịch kỳ
lạ của tôi. Ông chỉ nhẹ nhàng bảo tôi hãy yên tâm ở lại và rằng người của phủ
quốc sư sẽ đối đãi với tôi như một vị khách quý. Tôi đã đoán đúng, một người
thông tuệ như Kumarayana, dù ông không thể biết rõ thân phận thật sự của tôi,
nhưng ông sẽ không xem tôi như yêu ma quỷ quái để rồi trói tôi lại và đem thiêu
sống. Có lẽ vì thế, ông mới sinh ra hai người con trai xuất sắc như vậy và cả
hai đều yêu kính ông như vậy!
Đêm đó,
tôi đã được ngủ một giấc say sưa trong căn phòng mà trước kia tôi từng gắn bó
suốt ba tháng trời. Tôi băn khoăn tự hỏi, không biết Rajiva sẽ nghĩ gì nếu biết
tôi đã quay về phủ quốc sư. Không biết giờ này cậu ấy đang làm gì? Và, không
biết cậu ấy có nhớ tôi không?
Tôi đến
thành Khâu Từ bằng xe ngựa của Rajiva. Đường sá gập ghềnh, xe ngựa lắc lư, bình
thường, trong trạng thái ấy, tôi đã ríu mắt lại hồi lâu, nhưng hôm nay không
hiểu sao, tôi vẫn tỉnh như sáo. chẳng hề buồn ngủ. Có lẽ vì, tôi vẫn đắm chìm
trong nỗi phấn khích lúc trước, hai mắt vẫn đang chăm chú mở to nhìn đôi tay.
Kể từ lúc đôi tay này chạm vào khuôn mặt của cậu ấy, tôi thậm chí không nỡ rửa
tay. Tôi đưa lên, nhắm mắt lại, cố hình dung ra từng đường nét và tưởng tượng
ra những ngón tay mình đang khám phá khuôn mặt của Rajiva. Tôi vẫn nhớ cảm giác
gai gai ấm áp khi chạm vào gò má gầy gầy, xương xương, lốm đốm râu và làm da
mịn màng của cậu ấy. Cảm giác đó khiến tôi, dù đã rất cố gắng, cũng không kìm
chế được nụ cười hạnh phúc đang nở tràn trên môi.
Tôi cứ
tủm tỉm cười như vậy suốt dọc đường đi, cho đến xe ngựa dừng lại giữa thành phố
Khâu Từ đang tắm mình trong ráng chiều. Phòng trọ mà Rajiva đặt trước cho tôi
là một căn phòng "hạng sang". Tôi thầm cảm ơn sự chu đáo của Rajiva,
vì nhờ cậu ấy, tôi đã có một chỗ nghỉ ngơi thoải mái trong thành cổ và dịp lễ,
khi mà tất cả các nhà trọ đều đã kín người. Ăn uống qua loa xong xuôi, tôi bắt
đầu ngáp ngủ, rất lâu rồi tôi mới thức khuya như hôm nay. Tôi nhớ là chỉ vào
những dịp thi cử, tôi mới phải thức trắng đêm trong phòng học tự học ở trường.
Thế nên, tôi quyết định dành tất cả khoảnh thời gian còn lại… để ngủ. Hi vọng
là lúc mê mệt, tôi không ngáy to, nếu có ngáy, mong là không khi