
inh giảng giải về phương pháp tu thành
chính quả. Nhưng...
Rajiva
đứng lên, bước về phía cửa sổ, xoay tay đặt sau lưng, trước mắt tôi là một dáng
hình cô đơn, khổ hạnh. Tuy tuổi còn trẻ, nhưng đã toát lên thần thái của một
bậc cao tăng.
- Trên
đường trở về Khâu Từ, chứng kiến cảnh xương trắng chất đầy sa mạc, đạo tặc
hoành hành khắp nơi, người người khổ ải lầm than. Tôi lấy làm băn khoăn, tôi có
thể đắc đạo thông qua con đường tu hành, nhưng những con người đó thì sao? Đám
giặc cướp ấy vẫn ngang ngược làm càn, chúng sinh vẫn chìm đắm trong nỗi khổ ải
của sinh lão bệnh tử. Vậy tôi nghiên cứu Phật pháp phỏng ích gì?
Tôi
đứng lên, bước lại gần Rajiva, nhẹ nhàng lên tiếng:
- Tiểu
Thừa xuất thế, Đại Thừa nhập thế. Vì vậy, khi tiếp xúc với Phật giáo Đại Thừa,
cậu cảm thấy tông phái này phù hợp với ý nguyện của mình hơn. Địa Tạng Vương Bồ
Tát từng nói: Khi nào địa ngục còn chưa vắng âm hồn, thề sẽ không thành Phật.
Có phải cậu cũng muốn học theo Bồ Tát, cứu rỗi nhiều người chứ không chỉ cứu
rỗi bản thân?
Rajiva
đột ngột quay lại nhìn tôi, ánh mắt cảm động, gương mặt rạng rỡ.
- Đúng
vậy. Khi còn ở Sulaq, tôi theo học đại sư Suryasoma, lần đầu tiên tiếp xúc với
Phật giáo Đại Thừa, tôi đã bị thuyết phục sâu sắc. Mấy ngày qua, cùng cô thảo
luận về Phật pháp, những kiến giải thâm thúy của cô về Phật giáo Đại Thừa và
Tiểu Thừa khiến tôi vô cùng ngưỡng mộ, có điều...
Gương
mặt thoáng chút ưu tư, giọng nói trở nên u uẩn:
- Có
điều sau khi trở về Khâu Từ, mỗi lần tôi đề cập đến giáo lý Đại Thừa, các vị sư
phụ đều cho rằng đó là thứ luận thuyết ngoại đạo sai trái, khiến tôi cảm thấy
rất khổ tâm.
Tôi có
thể hiểu được tâm trạng ấy. Phật giáo Tiểu Thừa đã tồn tại và hưng thịnh suốt
mấy trăm năm ở Khâu Từ. Thời gian đầu, cuộc phân tranh giữa hai tông phái này
diễn ra rất kịch liệt. Khi ấy việc truyền bá giáo lý Đại Thừa, vốn là một tông
phái nhỏ bé lúc bấy giờ, bị xem là hành vi “xấu xa” của một bộ phận rất nhỏ các
“tăng sĩ tích cực”. Vì vậy, có thể hiểu được Rajiva đã gặp phải sự kháng cự, phản
đối mạnh mẽ đến thế nào và nội tâm cậu đã phải đấu tranh, giằng xé ra sao.
-
Rajiva, thực ra, Đại Thừa được phát triển trên nền tảng của giáo lý Tiểu Thừa,
hai tông phái này không đối lập nhau. Phật tổ sáng lập và đạo Phật vì muốn
chống lại đạo Bà La Môn, phản đối chế độ phân biệt đẳng cấp khắc nghiệt, bởi
vậy giáo lý của ngài hết sức đơn giản. Phương thức tu hành phỏng theo lối tu
khổ hạnh rất được ưa chuộng lúc bấy giờ, hy vọng bằng sự cố gắng của bản thân,
có thể đạt đến sự giải thoát. Nhưng xã hội đang trên đà phát triển và đổi thay.
Những điểm hạn chế của giáo lý Tiểu Thừa đang ngày càng trở nên rõ rệt.
Tôi
bước đến bên cạnh Rajiva và nhìn cậu bằng sự chân thành lớn nhất mà tôi có:
- Phật
giáo Tiểu Thừa đề cao “tự cứu độ”, muốn được giải thoát, nhất thiết phải xuất
gia. Những người tu hành theo Phật giáo Tiểu Thừa không tham gia sản xuất,
không sinh con đẻ cái. Nếu ai cũng xuất gia và theo tông phái này, quốc gia sẽ
không thể tồn tại, loài người tất diệt vong. Đúng vậy, lúc Phật giáo và quyền lực
thống trị phát sinh mâu thuẫn thì tông phái Đại Thừa ra đời để giải quyết vấn
đề đó.
Tôi
ngẩng đầu, dõng dạc:
- Hơn
nữa, giáo lý Đại Thừa có thể cứu giúp mọi người. Chỉ cần bái phật và đọc kinh
Phật là có thể thành Phật. Và như vậy, không cần phải xuất gia, cư sĩ cũng có
thể thành Phật, tức là sẽ giải tỏa được mâu thuẫn về sức sản xuất. Cư sĩ lại có
thể thành thân, tức là sẽ giải tỏa được nhu cầu sinh sôi nảy nở không ngừng của
nhân loại. Chỉ khi được giai cấp nắm quyền công nhận, Phật giáo mới có thể được
lưu truyền rộng rãi và thu hút thêm nhiều tín đồ. Đó chính là khi Phật quang
phổ chiếu, phổ độ chúng sinh.
Rajiva
dường như đang nghe rất nhập tâm, vẻ mặt đăm chiêu. Tôi không biết cậu ta hiểu
được bao nhiêu. Tôi chỉ đưa ra phân tích của mình dựa trên mối quan hệ giữa tôn
giáo và sức sản xuất, giữa tôn giáo và giai cấp thống trị mà thôi. Sau đó bổ
sung thêm:
-
Rajiva, nguyện vọng thay đổi tông phái của cậu là đúng đắn. Phật giáo Đại Thừa
phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại, giúp giải tỏa nhu cầu tinh thần
của rất nhiều người.
Với
tính cách phóng khoáng và tư tưởng cấp tiến của cậu ấy, giáo lý Đại Thừa chắc
chắn phù hợp với cậu ấy hơn. Thế nên quyết định thay đổi tông phái của cậu ấy
về sau này cũng là tất yếu.
Rajiva
ngẩng đầu lên nhìn tôi, khuôn mặt thiếu niên phảng phất nét ưu tư:
- Vậy ở
Trung Nguyên thì sao? Liệu người Hán có đón nhận Phật giáo Đại Thừa không?
Tôi
cười:
- Điều
ấy là tất nhiên. Phật giáo Đại Thừa sẽ được lưu truyền rộng rãi ở Trung Nguyên
từ đời này sang đời khác.
Quý
Tiễn Lâm từng nói: “Thời gian phát triển hưng thịnh của một tôn giáo dài hay
ngắn phụ thuộc vào mức độ Trung Quốc hóa của nó. Giáo lý nào càng bình dân càng
dễ được lòng quần chúng và như vậy sẽ càng được giai cấp thống trị ủng hộ. Giáo
lý Tiểu Thừa đòi hỏi con người tu hành khắc khổ mà chưa chắc đã có thể thành
Phật. Trong khi Phật giáo Đại Thừa, nhất