
gì bị đánh mặt mũi sưng tím. Ông ta cứ giậm chân đấm ngực, chỉ
lên trời mà thề bồi, rằng nếu ông ta đánh lừa thì trời cho sét đánh chết ngay.
Xung quanh láng giềng đều làm chứng rằng ông già Chử từ hôm đã về mười mấy ngày
không hề bước ra khỏi cửa, Trần Đại Lang bấy giờ mới chịu ngừng tay. Chàng ta
dán yết thị tìm người khắp nơi, lại đệ đơn lên huyện Sùng Minh và phủ Tô Châu, song
kết quả vẫn không có tin tức gì.
Gần
đến tết, mọi nhà đều náo nức đón năm mới chỉ có nhà Âu Dương cứ khóc lóc sụt
sùi đau khổ vô cùng.
Trần
Đại Lang mới nghĩ: ngày 19 tháng 2 là ngày Quan Âm Bồ tát ra đời, sao ta lại
không đến núi Phổ Đà thắp hương chứ? Một là để xin Bồ tát phù hộ, hai là thăm
thú cảnh Chiết Giang cho đỡ buồn khổ. Thế là trung tuần tháng hai, chàng nhờ
ông nhạc trông coi cửa hàng rồi ngồi thuyền đi đến núi Phổ Đà.
Hôm
đi trời đẹp sóng êm, thuyền chở đầy khách đi lễ. Nhưng mới được mấy dặm, trời
bỗng nổi trận gió lớn, chỉ chốc lát mặt biển tối sầm, rồi sóng lớn nổi lên rất
dữ, thuyền mất phương hướng cứ trôi theo dòng nước mà đi tuồn tuột. Một lúc
sau, trôi đến cạnh một đảo nhỏ thì dừng lại, thấy trên đảo có mấy trăm tên lâu
la đang huơ gậy múa thương, đấu quyền, bắn nỏ. Thấy có hải thuyền dạt vào,
chúng nhảy lên thuyền cướp hết sạch cả hành lý và tiền bạc. Tiền bạc dùng để đi
lễ Phật chúng cướp đi sao được? Thế là có người kêu lên. Bọn lâu la vung đao
định chém. Trần Đại Lang vội nói: “Xin hảo hán hãy tha mạng cho họ!” Nghe giọng
Tô Châu, tên lâu la hạ đao xuống hỏi: “Ngươi từ đâu đến?” Trần Đại Lang lập cập
nói người Tô Châu. Tên lâu la nói: “Đại vương dặn rằng hễ gặp được thương gia
người Tô Châu thì ngài phải đích thân gặp mặt”. Bọn chúng bèn dẫn Trần Đại Lang
tới tụ nghĩa sảnh ở trong núi. Trần Đại Lang sợ quá cứ nhắm tịt mắt lại, niệm
thầm: “Xin Bồ tát phù hộ cho con!”
“A,
thì ra là ông bạn cũ của tôi tới, xin mời ngồi!” Trần Đại Lang nghe tiếng quen
quen bèn mở mắt lén nhìn xem ai nói, thì đúng là gã mặt đen râu xồm đã gặp hai
năm trước trong gió tuyết. Thấy Trần Đại Lang đã ngồi yên vị, gã râu xồm bèn
cúi xuống vái chào nói: “Ơn nghĩa cho một bát cơm trong lúc gió tuyết, xin ghi
mãi trong lòng, nay xin nhận cho một lạy anh em”. Trần Đại Lang vội vàng đáp
lễ, rồi nói xin tướng quân tha cho các khách đi thuyền và trả cho họ hành lý.
Gã râu xồm lập tức bảo lâu la làm theo như vậy. Trần Đại Lang mừng thầm trong
bụng: “Nếu không có bữa cơm hai năm trước thì hôm nay tính mạng khó toàn”.
Gã
râu xồm cho bày tiệc rượu khiến Trần Đại Lang thất kinh. Trong lúc ăn uống, gã
hỏi Trần Đại Lang về chuyện gia đình. Không hỏi thì thôi, vừa hỏi đến là Trần
Đại Lang rơi hai hàng nước mắt, bèn đem chuyện vợ và em vợ mất tích kể rõ đầu
đuôi. Gã râu xồm uống một hớp rượu rồi nói: “Vậy là không tìm thấy rồi!” Gã
khuyên Trần Đại Lang không nên buồn bã, ở đây có một người đàn bà, tuổi tác
tướng mạo, đều rất xứng với Trần Đại Lang, lại cũng là người Tô Châu, nay xin
tặng cho chàng làm vợ rất phù hợp. Trần Đại Lang không dám từ chối. Gã râu xồm
bèn lớn tiếng gọi: “Xin mời ra đây!” Chỉ thấy hai người một nam một nữ bước ra,
Trần Đại Lang chăm chú nhìn, thì ra chẳng ai khác mà chính là người vợ và cậu
em mà chàng ngày đêm mong ngóng. Ba người không cầm được, ôm nhau khóc ròng. Gã
râu xồm hất hất cái mặt đầy râu, cười hỏi Đại Lang: “Huynh có muốn biết chuyện
này là thế nào không? Xin chị dâu hãy từ từ kể rõ đi!”
Thì
ra, khi đó cuối năm, sơn trại chuẩn bị ăn tết. Râu xồm dẫn lâu la tới Sùng Minh
để kiếm ít đồ. Một buổi tối, họ nhìn thấy hai người một nam một nữ đang đi trên
bờ sông, bèn bắt lấy. Râu xồm nghe nói là vợ và em của Trần Đại Lang ở Tô Châu,
nhớ tới ân nghĩa của bát cơm trong gió tuyết ngày đó chưa báo đáp được, bèn đưa
hai chị em họ về sơn trại, tôn làm thượng khách và khoản đãi chu đáo, lại dặn
dò thủ hạ là hễ gặp ai là người Tô Châu thì đều đưa đến gặp đại vương. Bây giờ
quả nhiên Trần Đại Lang không mời mà đến.
Trần
Đại Lang mừng quá, thầm nghĩ thật là may. Nếu như không có bữa cơm trong gió
tuyết đó, thì e rằng đến tính mạng của vợ và em mình cũng không bảo toàn được.
Song lại nghĩ lại: Râu xồm muốn báo đáp ân huệ, đó là lòng tốt, song đi cướp vợ
và em vợ người ta rồi sau đó mới tính chuyện trả lại, cái cách trả ơn như vậy
thì cũng chỉ có loại trộm cướp mới làm. Nghĩ thế, chàng ta bèn vội vàng cáo
biệt, rồi cùng vợ và em đi khỏi cái đảo nhỏ đó như là chạy trốn vậy.
Vong ân phụ nghĩa (Nhị phách)
Đời
Tống có một chàng trai tên gọi Mãn Sinh, là con của một gia đình nhiều đời
làm quan, từ nhỏ không được ai dạy dỗ nên tính khí ngông cuồng tự phụ, mặc dù
hình dung tuấn tú, đầy bụng văn chương, song cứ mãi mà không lập nghiệp được.
Người trong họ dần dần xa lánh. Mãn Sinh cũng chẳng kể gì chuyện ấy, cứ sống
kiểu phiêu lãng giang hồ ngâm phong vịnh nguyệt vui chơi.
Người
chú là Mãn Quý thấy cháu không chịu cầu tiến thủ như vậy thì suốt ngày làm mặt
giận. Mãn Sinh bèn rời Hoài An đi đến Trường An, định tìm một người bạn cũ của
cha nhờ lo cho một chức quan gì