
úc
mừng, cứu được cả cậu con rể nữa”.
Mọi
người tới xem, chỉ thấy hai người mặt đối mặt, ngực sát ngực, ôm nhau rất chặt,
không sao gỡ ra được. Gọi mãi không tỉnh nhưng thân thể còn ấm, có vẻ như nửa
sống nửa chết. Cả nhà họ Hỷ túm tụm lại khóc. Mọi người chen nhau đến xem, ai
cũng bảo chưa thấy chuyện lạ như vậy bao giờ.
Lại
nói ở nhà họ Lạc, khi nghe tin con trai đi xem nước thủy triều bị sóng cuốn
xuống sông, ông Lạc kinh hãi, vừa đi vừa ngã, vội vã đến nơi, rẽ đám đông ra,
nhìn thấy Lạc Hòa bèn gọi: “Con ơi!” rồi òa khóc lớn, vừa khóc vừa nói: “Con
ơi! Khi sống con không được kết duyên chồng vợ, nào ngờ khi chết con lại được
thành đôi!”.
Ông
Hỷ mới hỏi vì sao nói vậy, ông Lạc bèn kể rõ chuyện trước đây ba năm con trai
ông nhất định xin cầu hôn với Thuận Nương, rồi thề rằng quyết không lấy vợ
trước khi nàng lấy chồng. Vợ chồng ông Hỷ nghe rồi mới trách: “Nhà họ Lạc cũng
có bảy đời làm quan, cũng là vọng tộc, hai đứa chúng nó lúc nhỏ lại cùng học
với nhau. Đã có ý ấy thì sao ông không nói sớm. Thôi bây giờ mọi người cùng gọi
đi, nếu gọi được chúng tỉnh lại, tôi sẽ gả con gái tôi cho con ông”.
Thế
là cả hai bên, nhà thì gọi con gái, nhà thì gọi con trai, gọi khoảng nửa tiếng
đồng hồ, hai người dần dần mở mắt, bắt đầu có hơi thở, song bốn cánh tay vẫn
không nới lỏng.
Ông
Lạc nói: “Con trai hãy mau tỉnh lại đi, bên họ Hỷ đã bằng lòng gả Thuận Nương
cho con làm vợ rồi!”
Chưa
dứt lời đã thấy Lạc Hòa mở to mắt ra nói: “Nhạc phụ đừng có nói mà không giữ
lời nhé!”
Rồi
nhổm ngay dạy vái tạ vợ chồng ông Hỷ. Sau đó Hỷ Thuận Nương cũng tỉnh lại. Cả
hai đều tỉnh táo như cũ, chẳng nôn ra tí nước nào, khiến ông Hỷ và ông Lạc rất
vui.
Ngày
hôm sau, nhà họ Hỷ nhờ người làm mối đến nhà họ Lạc bàn chuyện hôn nhân, xin
nhận Lạc Hòa làm con rể. Người làm mối chính là ông An Tam Lão. Nhà họ Lạc hoàn
toàn bằng lòng. Thế là chọn được ngày lành, nhà họ Hỷ đưa đồ vàng bạc lụa là,
trống kèn sôi nổi, đến đón Lạc Hòa về nhà thành thân. Từ đó, đôi vợ chồng ân ái
vui vẻ thế nào, chuyện chẳng cần phải nói.
Tròn
một tháng sau, Lạc Hòa và Thuận Nương chuẩn bị lễ vật để đi bái tạ miếu vua
thủy triều.
Ông
Hỷ thấy Lạc Hòa thông minh lanh lợi bèn mời danh sư đến nhà dạy cho. Sau Lạc
Hòa được ghi tên lên bảng vàng.
Ngày
nay, người Lâm An mỗi khi nói đến chuyện hôn nhân thường hay nhắc đến bốn chữ
“Hỷ Lạc Hòa Thuận”.
Năm
Gia Tĩnh đời Minh, ở trấn Thịnh Trạch huyện Ngô Giang tỉnh Giang Tô có một
nhà kia chồng tên Thi Phúc, vợ là Du Thị, hai vợ chồng làm nghề nuôi tằm dệt
lụa và chưa có con cái gì.
Một
hôm, Thi Phúc đi chợ bán lụa, trên đường về nhặt được một cái bọc, mở ra thì
thấy hơn sáu lượng bạc trắng. Mừng quá, anh ta nghĩ: “Nếu dùng chỗ này làm vốn,
mua thêm một cái khung cửi thì sau mười năm có thể thành phú ông rồi”. Nhưng
lại nghĩ: “Của này nếu là người nhà giàu đánh rơi thì chẳng qua cũng chỉ như
cái móng tay, nhưng nếu là nhà nghèo như mình thì lại là sự sống của cả nhà!”
Thế là anh ta nhất quyết trả lại số bạc cho người bị mất.
Thi
Phúc cứ đứng chỗ đó đợi, đợi rất lâu, cuối cùng thấy một người làm ruộng còn
trẻ tuổi hớt hơ hớt hải đi tới. Thi Phúc hỏi thì đúng là người bị mất túi bạc.
Người đó cảm ơn rối rít, rồi đưa cho Thi Phúc một nửa số bạc. Thi Phúc nói:
“Nếu tôi muốn lấy bạc thì việc gì lại phải đứng đợi mãi ở đây?” Nói rồi trả lại
luôn và vội vàng trở về nhà. Về đến nơi, anh ta kể lại với vợ, Du Thị rất là
tán thưởng.
Từ
đó, mỗi năm nuôi tằm đều có dư tiền. Gia cảnh dần dần khá hẳn lên. Trong mấy
năm đã tăng thêm được ba bốn cái khung cửi dệt lụa, lại sinh được cậu bé bụ bẫm
đặt tên là Quan Bảo.
Năm
đó, vào mùa tằm, mới qua ba đợt tằm ngủ mà toàn thôn đã hết cả lá dâu. Nghe nói
ở cạnh hồ Động Đình có nhiều lá dâu dư thừa, cả thôn hơn mười hộ bèn chuẩn bị
chở thuyền đến mua. Thi Phúc cũng đi.
Thuyền
đến bến Than Quyết thì trời gần tối. Mọi người bèn dừng lại nghỉ, chuẩn bị nấu
cơm, song không tìm ra lửa đốt. Thi Phúc bèn hăng hái lên bờ đi kiếm.
Lúc
này đúng kỳ tằm chín, nhà nuôi tằm rất kiêng người lạ vào nhà, vì thế Thi Phúc
gõ cửa nhiều nhà, họ đều không mở. Cuối cùng, tới một nhà mở cửa he hé, có một
người đàn bà cho Thi Phúc vào châm lửa. Nói chuyện đôi câu, được biết thì ra
chồng của chị là người đánh rơi bạc hồi đó, tên gọi Chu Ân. Thi Phúc
và Chu Ân gặp nhau, vô cùng vui mừng. Vợ chồng Chu Ân biết
Thi Phúc đi mua lá dâu, bèn đem tất cả số lá dâu còn dư của nhà mình cho hết
Thi Phúc. Thi Phúc nghĩ bụng như vậy cũng tốt, khỏi phải đi xa nữa. Thế là đưa
lửa về cho mọi người rồi lại đến nhà ChuÂn.
Ngay
tối hôm đó, Thi Phúc và Chu Ân bái kết làm anh em. Thi Phúc có con
trai hai tuổi, Chu Ân có con gái cũng hai tuổi. Thế là Chu Ân
xin kết làm thông gia. Thi Phúc vui mừng nhận lời ngay. Hai người uống rượu đến
khuya mới đi nghỉ.
Ngày
hôm sau, trời nổi gió to, lại mưa một trận lớn, thế là Thi Phúc lại phải ở lại
nhà Chu Ân một ngày nữa. ChuÂn nói: “Cũng là ý trời muốn huynh gặp
gỡ đệ. Trời này thì đi thuyền trên hồ nguy hiểm lắm”.