
ưa thấy lại,
nay lại gặp nhau trên Tây Hồ, nên bốn mắt luôn luôn nhìn nhau, cả hai đều lộ rõ
vẻ yêu thích.
Thuyền
tới ngôi đình giữa hồ, các khách nam đều lên đình đi dạo xem. Lạc Hòa thoái
thác là đau bụng, ở lại trong thuyền, rồi tới trò chuyện với mẹ con Thuận
Nương, tranh thủ liếc mắt cho Thuận Nương, hai người dường như hiểu ý nhau.
Ngày
hôm đó, về đến nhà, Lạc Hòa nói với mẹ xin nhờ bà mối đến nhà họ Hỷ cầu hôn.
Bà
mẹ là An Thị chẳng biết cao thấp gì hết, bèn giục Lạc công đi tìm bà mối. Lạc
công nói: “Nhà họ Hỷ là danh gia, con gái của họ còn sợ không có ai cầu hay sao
mà phải chịu kết thông gia với nhà mình? Nhờ người đến hỏi, họ lại cười cho ấy
chứ”.
Lạc
Hòa thấy cha mẹ không bằng lòng, bèn xin mẹ đi nhờ ông cậu giúp. Nào ngờ An Tam
Lão cũng nói y như cha, thế là chàng ta thất vọng quá, suốt đêm thở dài không
ngủ.
Hôm
sau, trời vừa mới sáng, chàng ta bèn lấy giấy làm một cái bài vị, trên đề 7 chữ
“Thân thê Hỷ Thuận Nương sinh vị” (bài vị sống của vợ thân thương Hỷ Thuận
Nương). Rồi cứ mỗi ngày ba bữa đứng trước bài vị mà ăn. Buổi tối lại đặt bài vị
ngay cạnh gối, gọi khẽ ba tiếng rồi mới ngủ.
Sau
đó, cứ đến mấy ngày Tết Thanh minh, Trùng dương, Đoan ngọ, Lạc Hòa lại sửa soạn
nghi dung, mặc quần áo mới, qua qua lại lại giữa đám đông, mong mỏi Thuận Nương
xuất hành, may ra được gặp.
Có
mấy nhà cũng buôn bán như nhà họ Lạc, cũng có con gái, thấy Lạc Hòa đã lớn, đều
đến cầu thân. Cha mẹ đã mấy lần đồng ý, song Lạc Hòa cứ không chịu. Chàng ta
thề rằng nhất định đợi khi nào Thuận Nương đi lấy chồng rồi mới tính đến chuyện
hôn nhân của mình.
Thật
khéo làm sao, bên này Lạc Hòa thề không lấy vợ, thì bên kia Thuận Nương cũng
không chịu lấy chồng. Ngày tháng thoi đưa, chẳng mấy chốc đã qua ba năm. Năm đó
Lạc Hòa 18 tuổi, Thuận Nương cũng đã tròn 17.
Bấy
giờ đúng vào năm hai miền Nam, Bắc thông hòa. Nước Kim phái một sứ thần
tới Lâm An. Để khoản đãi sứ thần, ngày Lễ vua Thủy triều 18 tháng 8, triều đình
dựng một cái giàn màu sắc rực rỡ ở bên sông rồi bày tiệc lớn ở đó để vua quan
ngắm nước thủy triều lên. Nam nữ khắp thành đều tới xem rất đông vui.
Lạc
Hòa biết tin cả gia đình họ Hỷ cũng đi xem thủy triều bèn ăn mặc chỉnh tề đi
tới cửa sông Tiền Đường, nhưng chàng ta tìm mãi khắp nơi vẫn chẳng thấy Thuận
Nương đâu, Cuối cùng, đi đến một chỗ gọi là “Bức tranh trời vẽ”, chỗ này thế
nước lên rất lớn, luôn có người đứng không vững bị cuốn xuống nước.
Lạc
Hòa đi một vòng ở đây, không thấy Thuận Nương, lại quay tìm lại, trong đám
người đông nghìn nghịt, cứ đi một bước lại nhìn một lượt. Cứ thế rất lâu, bỗng
thấy một bà đi đằng trước mặt, nhận ra là bà vú của Thuận Nương, bèn theo sát
đằng sau. Đi được một quãng, quả nhiên thấy cả nhà họ Hỷ đang ngồi vừa uống
rượu vừa xem nước.
Lạc
Hòa không dám đến gần quá, chỉ đứng xa xa đăm đắm nhìn Thuận Nương, tức rằng
không thể bước tới để ôm chặt lấy nàng mà nói đôi lời. Thuận Nương ngẩng lên
nhìn, cũng nhận ra Lạc Hòa ở xa xa, thấy chàng bước rồi lại lùi trông rất hồi
hộp thì lòng dạ không yên. Nhưng cha mẹ đang ở ngay bên cạnh, không rời nửa
bước, không thể đến mà gặp chàng được.
Chính
lúc hai người đang đắm đuối nhìn nhau thì bỗng nghe nói: nước triều lên rồi.
Nghe chưa dứt lời đã thấy bên tai ầm ầm như trời long đất lở, ngọn triều cao
đến mấy trượng dồn thẳng vào bờ. Mọi người hoảng hồn kêu ré lên chạy lùi về
phía sau. Thuận Nương đang chỉ chăm chú nhìn Lạc Hòa, bất giác cuống lên chẳng
biết cao thấp gì, lại cứ bước tới mấy bước, bỗng trật chân một cái, lập tức bị
cuốn vào làn sóng.
Lạc
Hòa thì đã cảnh giác, thấy được thế nước đang tới, vội quay mình chạy lên chỗ
cao. Nhưng vẫn nhớ đến Thuận Nương, mắt nhìn Thuận Nương miệng kêu: “Tránh nước
lên kìa!” Đột nhiên thấy Thuận Nương ngã xuống. Chàng hết hồn vội nhảy luôn đến
chỗ đó. Vốn không biết bơi, chỉ vì người yêu mà chàng cuống lên chẳng kể đến
sinh mạng mình nữa.
Vợ
chồng ông Hỷ thấy con gái ngã xuống nước hoảng hốt hét lên: “Cứu người! Cứu
người! Xin cứu con gái tôi, sẽ có trọng thưởng!” Một đám con trai biết bơi nghe
nói có thưởng đều nhảy ra nhào lộn với sóng để vớt Thuận Nương.
Lại
nói Lạc Hòa, vừa nhảy xuống là chìm ngay tận đáy nước, song cứ cảm thấy như
đang mơ, chẳng đau đớn gì. Chàng ta cứ tự nhiên trôi đến miếu của vua thủy
triều, thấy đèn nến sáng trưng, hương thơm ngạt ngào. Chàng ta vái lạy, xin vua
thủy triều cứu Thuận Nương. Vua thủy triều nói: “Thuận Nương ta đã lưu giữ tại
đây rồi, bây giờ giao trả cho ngươi”. Nói xong có một tiểu quỷ dẫn Thuận Nương
từ phía sau tấm màn đi ra.
Lạc
Hòa lạy tạ vua thủy triều rồi đưa Thuận Nương ra khỏi miếu. Hai người vô cùng
sung sướng, không nói được lời nào, chỉ ôm chặt lấy nhau, song cứ cảm thấy
người nhẹ lâng lâng, lát sau cùng nổi lên mặt nước.
Bọn
con trai kia thấy Thuận Nương trồi lên khỏi sóng, vội vàng xô tới. Đến khi nâng
được lên khỏi mặt nước mới phát hiện ra là hai người. Thế là bốn, năm người kẻ
khiêng đầu người khiêng chân, đưa cả lên bờ rồi nói với ông Hỷ rằng: “Xin ch