Polaroid
Đất Rừng Phương Nam

Đất Rừng Phương Nam

Tác giả: Đang cập nhật

Thể loại: Truyện ngôn tình

Lượt xem: 321643

Bình chọn: 8.00/10/164 lượt.

mười lăm tuổi mà đã dỗ phi-ca thì giỏi lắm. Ờ, hồi tao còn con gái, có

một ông giáo phica chú ý đến tao, nhưng duyên trời không định: Chà, ngày xưa đỗ

phi-ca là đã nên ông nọ ông kia rồi. Khổ cho mày, gặp thời buổi loạn ly!... Thế

ba má cháu đâu?

- Dạ, ở xa lắm! - tôi đáp một cách miễn

cưỡng..

Thấy tôi không muốn nói, bà ta cũng thôi

không hỏi. Bà ta vốn là người khôn ngoan, lịch thiệp và từng trải, luôn luôn

đoán trước ý mọi người, biết lúc nào nên nói, lúc nào nên không và nên chấm dút

câu chuyện ở chỗ nào. Điều này, tôi nhận ra trong những đặc tính của bà ta chỉ

qua vài ngày sau thôi.

Kể ra thì khách rượu của quán rượu dì Tư Béo

không thiếu hạng nào. Những tay vô công rồi nghề, la cà ngồi tán dóc ốt ngày

cũng có. Những người tản cư, cắm thuyền tạt lên uống chén rượu rồi quảy qua đi

ngay cũng có. Bọn con buôn vào ngồi chỉ cốt lấy chỗ gặp gỡ, trao đổi luồng hàng

đương khan hiếm và để kiếm món xào nướng khoái khẩu hơn là vì cần nên đôi khi,

một vài người lính Cộng hòa vệ binh có tuổi lén rời chỗ trú quân vào làm một

cốc rượu khan, trước khi ra khỏi quán cứ đưa ống tay áo chùi ria mép và dặn đi

dặn lại tôi: "Này, chú em, hễ có ban chỉ huy đến hỏi thì nói không có ai

tới uống rượn đây cả nhé! Nhớ nhé".

Chỉ trong vài hôm, tôi đã quen mặt hầu hết

những đệ tử Lưu Linh của xóm chợ này. Nhưng trong đám người thường lui tới đây,

tôi chỉ đặc biệt chú ý có hai người.

Một

là lão Ba Ngù. Dường như lúc nào cũng có lão túc trực trong quán. Nói cho đúng

thì lão ta cũng không phải là tay mạnh rượu. Nhưng lão có thể lai rai uống được

ốt ngày. Những chuyện tiếu lâm, những chuyện giang hồ mã thượng lão kể đi kể

lại với mọi người, tôi nghe đến thuộc làu những vẫn thích nghe. Bởi mỗi lần kể,

lão thường hay thắt thêm vào những chi tiết bất ngờ khiến tôi phải cười bò ra;

hoặc cũng có một đôi chỗ mà lần trước kể dài dòng, lão đã biết khéo léo thu vén

bỏ đi cho câu chuyện thêm tròn trĩnh, dễ nghe hơn. Những lúc đông khách, lão

đứng dậy nhường chỗ cho người mới tới. Đôi khi lão còn bưng hộ bát thừa giúp bà

chủ quán.



Tư béo mến lão vì cái tài đưa chuyện và giữ khách không công của lão, nên thỉnh

thoảng bà ta cũng đãi lão cút rượu kèm theo một con khô cá lạt nướng. Ai mời

rượu. lão đều uống, không từ chối. Nhưng chỉ uống một chén con cho vui bụng

ngươi ta thôi. Không bao giờ lão uống đến chén thứ hai. "Mình là người

biết tự trọng. Mình có phải là thằng già nát rượu đâu? " Lão thường lè nhè

nói một mình như vậy. Cứ mỗi người một chén rượu mời, mỗi ngày đêm lão Ba Ngù

có thể uống tính ra đến một, hai lít? Lão luôn luôn cởi trần, áo chỉ dể vắt hờ

bên vai, bảo: "Để vầy cho nó mát". Lão chỉ mặc độc chiếc quần đùi: da

mặt, da lưng đỏ như cua luộc. Dường như bấm vào bất cứ chỗ nào trong thân hình

lão cũng có thể chảy rượu ra ngay được...

Đó là người thứ nhất.

Người

thứ hai là Tư Mắm. Không biết y ở đâu, tên thật là gì. Chỉ biết rằng y thường

chở mắm lóc, mắm trê đôi khi chở cả dừa khô và bí rợ trong một chiếc ghe lườn

bán dọc theo các xóm bờ kênh, nên đồng bào gọi y là Tư Mắm. Còn người đàn bà

chạc ba mươi tuổi mà Tư Mắm bảo là vợ y không mấy khi bước lên bờ. Có lần, tôi

nghe thấy lão Ba Ngù che tay lên miệng bảo với dì Tư Béo: "Chà, bộ thằng

Tư Mắm có ngải hay sao mà nó chài được con nỡm đẹp quá. Không phải vợ hắn đâu.

Dứt khoát là không phải bà chị ạ."



Mắm ngươi dong dỏng cao nước xanh mét, tóc cắt bom-bê, mái tóc trước trán rủ

xuống tận gò má bên phải. Đôi mắt y rất bé và sắc lạ lùng, tròng mắt đảo đi đảo

lại rất nhanh và không hề nhìn thẳng vào ai bao giờ.

Một

buổi sáng, lúc tôi đang bưng rổ tôm càng xanh từ chợ về thì nghe tiếng tàu bay

vè vè từ hướng Sóc Trăng lượn đến. Người trong chợ xô nhau nhạy toán loạn.

Chiếc

tàu bay đảo hai vòng trên xóm Ngã Ba Kênh, bay rất chậm nhưng thật cao, nghiêng

qua nghiêng lại quan sát rồi thả xuống một đống truyền đơn. Những tờ truyền đơn

tủa ra, bị gió cuốn đi bay về mạn rừng tràm cách chợ có đến vài ngàn thước.

Không biết bọn giặc nói gì trong ấy. Nhưng khi tôi về đến quán thì gặp ngay lão

Ba Ngù đứng chửi oang oang:

-

Tổ cha thằng Tây. Mày đánh thì xuống đây. Chứ bay trên trời thả giấy xuống thì

cũng chưa gọi là bảnh.

Lão

níu rổ tôm của tôi lại, hỏi:

- Mày có nhặt được tờ nào đút trong này không?

- Không - tôi đáp.

- Truyền đơn nó kêu gọi Việt Minh đầu hàng đấy!

- Sao bác biết? Bác nhặt được à?

- Nhặt

đâu mà nhặt. Thằng Tư Mắm nó vừa bảo đấy. Cái thằng coi vậy mà nhát. Nó mới

nghe hơi tàu bay một chút, đã xuống ghe chèo đi tuốt rồi!

Từ

đó đến chiều, gặp ai lão Ba Ngù cũng nói đi nói lại có bao nhiêu chuyện đó. Và

chuyện giữa người trong quán cứ xoay quanh vấn đề: "Tây sắp tiến công vào

đây? Liệu chúng ta có chặn nổi không."

Vào

lúc chạng vạng, trời bỗng nổi gió to. Tiếng sấm nổ chát chúa trên những vầng

mây đen sì mỗi lúc như muốn xà thấp xuống ngọn cây. Mưa bắt đầu rơi lộp độp

những hạt to và nặng trên mái lá. Nhưng chỉ ào qua một loạt rồi tạnh ngay. Lão

Ba Ngù đứng trước quán, nhìn theo những làn chớp kêu