
hỗ mình ngồi
những thanh đà sắt bắt chéo vào nhau trong một màu tối âm u, và sâu hơn một
chút, dưới kia dòng nước lao nhanh như cắt lúc nào cũng giận dữ réo ào ào,
dường như muốn nhổ phăng những chiếc cột tàu bằng thép to tướng mà lôi dìm
xuống đáy sâu.
- Sướng nhỉ, anh nhỉ?
Được như con chim cánh cụt ấy thì bọn trẻ chúng em không bao giờ sợ lạc! - tôi
huơ tay nói như vậy.
- Đó là một con chim đáng
thương! Vì cánh nó quá ngắn phải không anh?
- Ừ, cũng có thể... Nhưng không hẳn như vậy
đâu. Anh muốn nói với em một vấn đề khác kia...
Người thủy thủ trẻ có khuôn mặt sạm nắng rất
đẹp, mái tóc lúc nào cũng bồng lên vì sóng gió đại dương, đăm đăm nhìn về chỗ
vạch ngang của dòng sông Cửu Long lòa nhòa gắn liền mặt nước với chân trời. Anh
im lặng một lúc; sau khi đã hút mấy hơi khói thuốc dài, giọng anh bắt đầu trầm
hẳn xuống, như nói với mình:
Cuộc sống của con người phải đâu chỉ thu hẹp
trên mảnh đất vùng quê? Đã đành quê hương là nơi gắn bó với cuộc đời mình nhất,
nhưng khi người ta còn trẻ tráng, phải bay nhảy hoạt động, đi đây đi đó chứ.
Lúc nào cũng chạnh nghĩ về quê hương, đó là báo hiệu của tuổi già...
Không phải vì có dôi chim cánh cụt mà con
panh-goanh không đi xa được đâu. Nó là một con chim không có cánh ở tâm hồn. Nó
như một ông cụ già lưng mỏi gối chùn, lúc nào cũng muốn tìm về nằm xuống ở quê
hương!
Chiều chiều, sau giờ học, thầy giáo tôi
thương dắt học trò ra sông Cửu Long tập bơi. Trên cầu tàu lục tỉnh ấy, tôi đã
gặp và quen anh. Anh làm thủy thủ trên một chiếc tàu rất lớn, có ba ống khói to
tướng sơn màu xanh da trời. Lâu lâu, tàu anh lại cặp bến một lần. Gặp anh vài
bận, tôi đã thấy gắn bó với anh rồi. Mà anh thì cũng rất mến tôi. Bởi tôi hay
hỏi đủ mọi thứ chuyện trên trời dưới đất, lung tung, mà anh cũng lấy làm thích
thú một thằng bé tò mò, lúc nào gặp anh cũng đặt ra nhũng câu hỏi, khiến anh
phải nhồi rất nhiều thuốc lá vào tẩu mới tìm ra lời giải đáp. Tôi mời anh về
nhà tôi chơi. Ba má tôi cũng rất quý anh thủy thủ vui tính, biết nhiều chuyện
lạ này. Lần nào anh đến chơi, ba má tôi giữ anh ở lại ăn cơm. Nhũng hôm ấy, nhà
tôi rộn lên tiếng nói, tiếng cười, vui như có cỗ. Quan hệ mật thiết giữa anh và
tôi khiến ba má tôi xem anh như người trong họ hàng.
Cuộc đời anh lênh đênh nhiều năm khắp các mặt
biển, trên nhiều chiếc tàu của những công ty hàng hải khác nhau. Anh đã đi qua
Ấn Độ Dương, vượt kênh đào Xuy-ê ra Địa Trung Hải, men theo bờ Đại Tây Dương
lên tận cảng Lơ Ha-vrơ... Gần khắp mặt biển Thái Bình Dương, cảng nào anh cũng
có tới. Anh biết rất nhiều thành phố, nhiều giống người... Chỉ có những xứ ở
bên kia tây bán cầu là anh chưa đặt chân tới thôi. Trong những mẩu chuyện anh
kể, tôi nghe quen nhiều tên giống người, tên vùng đất, hải cảng, tên thủ đô,
thành phố quan trọng trên hầu khắp các lục địa mà tôi đã học say mê trong các
bài địa dư ở trường...
- Em coi bộ thích phiêu lưu lắm hả? - có lần
anh hỏi tôi như vậy.
- Phiêu lưu là sao, anh?
Anh
nhoẻn miệng chơi, bập bập cái tẩu thuốc lá làm cho khói bốc xanh um như một ống
khói tàu, hạ thấp giọng:
-
Ờ phiêu lưu là nay đây mai đó. Trên rừng, dưới biển, đồng ruộng, núi cao... bất
cứ chỗ nào mình cũng đi tới. Càng đi thì càng gặp nhiều chuyện lạ, khiến cho
mình say mê... Thôi, bao giờ em lớn lên, em sẽ biết.
Năm
ngoái, anh đi đâu bên Thái Lan về, mang cho gia đình tôi nhiều thứ. Quà tặng ba
tôi là chiếc hộp thuốc bằng bạc chạm: quà tặng má tôi là một ông Phật bằng đồng
to lối nắm tay, ngồi dim mắt trên tòa sen...
Và
suy đi nghĩ lại chẳng biết gì hơn - anh vỗ vỗ vai tôi - anh mua tặng em một
chiếc địa bàn Chiếc địa bàn bé bằng quả trứng, có cây kim đồng quay quay chỉ về
phương bắc, giờ đây lại hiện ra to tướng, lồng vào khung trăng vành vạnh đang
treo lơ lưng giữa trời kia. Nó là điềm báo như lời má tôi thường nói chăng? Hay
cái vật bé nhỏ, xinh xắn mang trong lòng nó mũi tên chỉ đường cho những kẻ viễn
du không may lạc lối trong sương mù, bão tố, giữa rừng rậm, đồng hoang... từ
khi cầm nó vào tay, số mệnh đã khiến cho tôi phải rơi vào cuộc sống lênh đênh
này chăng? Tôi nghẹo đầu vào vách, nhắm mắt lại, tưởng như nghe lại giọng hát
quen thuộc của người thủy thủ trẻ đang vẳng đến từ một chỗ thẳm xa nào:
“Xưa kia có một con tàu nhỏ
Nó chưa hề lướt sóng ra khơi...
Này hỡi những chàng thuỷ thủ
Đang xông pha trên ngọn sóng cao vời.”
Chà,
tôi lại khát nữa đây... Tiếng mạch đập trong tai tôi ù ù hay tiếng gió thổi
giữa trùng dương. Tôi chóng mặt quá, cứ buồn nôn. Tôi đang nằm đây hay đang
đứng trên con tàu lắc lư nhồi theo sóng? Giọng nam trầm của anh Ba thủy thủ cứ
dập dềnh đưa tiếng hát bè cao cua tôi chồm chồm bay vút ra xa... "Xưa kia
có một con tàu nhỏ... Nó chưa hề lướt sóng ra khơ... ơ...i.” Một lượn sóng thần
cao vút như núi hiện lên ở chân trời, băng băng chạy tới trong tốc độ nhanh
khủng khiếp, rồi chồm qua phủ mất con tàu và cuốn tôi đi... trôi mãi... trôi
mãi.. Tôi càng vùng vẫy thì càng thấy bị chìm sâu xuống đáy, mỗi lúc một ngạt
thở đến không còn đủ sức